Nhớ mưa xứ Huế

09:12 21/12/2011

VÂN NGUYỄN                 Tùy bút “Nghe mưa nơi này lại nhớ mưa xa...” (Trịnh Công Sơn)

Ảnh: internet

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif] align="justify" class="MsoNormal" p="">Mấy ngày nay Sài Gòn mưa. Delete đi những quãng đường ngập nước; delete đi những ngã đường kẹt xe: người, xe, khói... ken dày vào nhau; rồi insert vào ngày một vài đoạn thời gian thư thả như 12h15’ trưa nay tôi dong xe ngang qua công viên Gia Định dưới màn mưa thoảng như nét kẻ chỉ đứt đoạn đan xen nhau tạo nên vài nét chấm phá vô tình nhưng đồng điệu với gam màu xam xám của đất trời và cây cỏ. Bỗng nhớ đến cồn cào mùa mưa xứ Huế.

Khoảng thời gian này Huế đã bước vào mùa mưa. Có một góc giảng đường trên tầng hai trường Tổng hợp Huế ngày xưa nhìn xéo qua là nóc giáo đường Dòng Chúa Cứu Thế mờ mờ sau những làn mưa mỏng tựa tấm voan trắng bạc bao trùm thành phố. Gần hơn là những nhánh gầy guộc của cây gòn mồ côi náu mình trên con đường mòn dẫn vào xóm đạo. Tôi đã đặt tên cho cây gòn như thế bởi gần bốn năm ngồi trên giảng đường nhìn xuống, chỉ thấy mỗi nó vươn lên cao hơn các loại cây khác trong xóm nhỏ - cao hơn nhưng đơn lẻ hơn, cô độc hơn. Chí ít là tôi đã cảm thấy nó cô độc.

Cũng trên góc nhìn xéo từ giảng đường này, ngày ấy, có một lần tôi bắt gặp cây gòn khóc trong mưa. Trái gòn khô hình giọt nước đang rơi chầm chậm như là giọt nước mắt của cây, để lại trên cành mỗi quả gòn lạc lõng cũng đang lắt lay trong gió bão. Từ trong thẳm sâu của lòng trắc ẩn, ta chợt nhói đau khi liên tưởng đến thân phận con người trước bao bất trắc, tai ương. Mới hay, tạo hóa vẽ nét buồn trong mưa Huế đầy ma lực, hơn bất kỳ nét cọ và màu nước của người họa sĩ tài ba nào. Chí ít là tôi đã nhiều lần rơi lệ khi nhìn mưa xứ Huế...

Hồi mới ra Huế học, những tân sinh viên như tôi đã phải làm quen ngay với những cơn mưa lâm thâm của mùa Ngâu Huế, tiếp đến là cả một mùa đông dài lê thê những mưa, bão, lụt lội, và rồi tái tê trong mưa dầm gió bấc khi đất trời xứ Huế bước vào cuối Đông đầu Xuân. Như thế, mùa mưa Huế dằng dai, triền miên từ Thu qua Đông, vấn vương sang Xuân là những cơn mưa phùn rả rích, như ai đó đang rây những giọt nước mắt đầy hờn tủi của nàng Bân khóc than cho sự chậm chạp vụng về của mình phủ xuống miền đất thần kinh đầy diễm lệ tạo nên một vẻ đẹp u buồn làm rung động lòng người cha đầy quyền năng, đã kéo dài những cơn mưa giá lạnh tới tận tháng ba để tấm áo cô con gái yêu của mình đan cho chồng có lần được dùng đến như một minh chứng cho tình yêu thương cần thiết được biểu hiện. Cũng từ đó ta luôn luôn khát khao muốn bày tỏ và tìm cách thể hiện tình yêu thương, sự quan tâm đối với những người thân yêu. Và, thật diệu kỳ, ta đã lại tìm thấy từ trong những đôi mắt tưởng chừng như ráo hoảnh, cằn khô vốn chất đầy những đớn đau, nghi ngại kia... một vài, rồi muôn trùng những ánh nhìn trìu mến, sẻ chia, cứ long lanh, lung linh đọng trên những giọt nước mắt lăn dài giống như những giọt mưa ngày đông xứ Huế đã rơi thấm đẫm tâm hồn tôi và ủ ấm, nuôi dưỡng nó qua biết bao nhiêu mùa mưa bão trong đời.

Mưa Huế buồn nhưng là buồn nền nã, kín đáo, duyên dáng, nên thơ bởi nét yên bình và thâm trầm vốn được tôn tạo từ những đền đài, thành quách, lăng tẩm, hoàng cung. Và mảnh đất thần kinh này, nhờ sự song hành của mưa mà thêm rêu phong, cổ kính, lắm khi trở nên huyễn hoặc, ma mị, ám ảnh suốt phần hồn còn lại của những ai từng có với Huế một vài kỷ niệm dở dang đang lưu lạc ở phương trời nào xa ngái. Có một người con trai tài hoa xứ Huế đã đi qua đời tôi và bỏ lại nơi đó những mùa mưa thương nhớ đong đầy kỷ niệm. Chẳng thể trách hờn gì nhau khi người đã định sẵn ngày rời xa quê nhà bằng cách khép lại cánh cửa lòng mong giữ nhịp đập bình yên cho con tim vốn dĩ đa đoan của mình. Còn tôi thì sao? Biết anh trong 4 năm nhưng những lần gặp thật hiếm hoi bởi hai chúng tôi luôn đi ngược nẻo đường nhau: Anh từ Huế vào Đại học Sư phạm Quy Nhơn năm 1984; tôi từ thành phố biển Quy Nhơn ra Huế học Tổng Hợp năm 1985. Lần gặp đầu tiên là lần tôi chia tay anh để đến với Huế; lần gặp cuối là lần anh chia tay tôi và Huế trước ngày qua Mỹ định cư.

Bấy giờ Huế đã gần cuối Thu. Anh chọn quán cafe gần cầu Phú Xuân bên bờ Nam Sông Hương để được “ngắm Sông Hương thêm lần nữa”. Chỗ chúng tôi ngồi là chiếc ghế đá ngoài trời nhìn thẳng ra dòng sông. Phong (tên anh) đã kéo tay tôi lại khi trời bắt đầu mưa: Anh muốn em ngồi đây với anh dưới cơn mưa có thể là cuối cùng của anh với Huế... Tôi không đáp nhưng để yên bàn tay trong tay anh, cảm nhận từ đó một sự ấm áp và nồng nàn dẫu đã quá muộn màng. Chẳng thể khác hơn, tôi đã tự dặn lòng sẽ làm tất cả để người sắp đi xa thanh thản. Có ai đó trong quán cầm ra cho chúng tôi chiếc dù kèm theo cái nhìn e ngại mang hình một dấu ớ. Phong và tôi nhìn nhau, nhìn chiếc dù rồi cùng bật cười. Phong bảo tôi cười buồn và an lành như mưa Huế. Tôi chợt chạnh lòng, ứa nước mắt, có ví von gì thì cũng chỉ mai đây thôi là tôi mất anh... May nhờ mưa nên anh đã chẳng bao giờ thấy tôi khóc.

Đến giờ, nhiều khi ngồi nghe mưa và cố hình dung, tôi vẫn không thể nhớ hết những gì chúng tôi đã tâm sự dưới cơn mưa cuối cùng đó. Chỉ mơ hồ rằng Phong đã giãi bày nhiều còn tôi lặng lẽ cảm nhận theo cách riêng. Thoảng trong mưa lời thầm thì của anh hay của gió rằng: em và mưa Huế sẽ là kỷ niệm mà anh luôn mang theo; rằng: đã có lúc anh ao ước giá mà biết em được nhiều hơn... và tôi nghe mằn mặn ở bờ môi. Ngày anh cùng gia đình vào Sài Gòn tôi không ra tiễn. Ngồi một mình ở góc giảng đường nhìn mưa rơi nhòe nhoẹt cây thánh giá trên nóc nhà thờ, nghe tiếng còi tàu xa vòng vọng, tôi viết mấy câu thơ buồn hiu hắt:

Nếu được biết em nhiều hơn có thể
Anh có trở về với Huế mùa sau???

Thơ viết cho anh nhưng chưa bao giờ tôi có ý định gửi đi bởi chẳng qua nó chỉ là một cách mà tôi muốn giải bày, thế thôi! Vài đôi lần, thực lòng muốn biết: đã bao giờ anh quay về quê nhà để nhìn lại những cơn mưa?

Còn tôi? Tôi không phải là dân Huế (mà bài thơ viết ngày ấy cho anh cứ như lời của một cô gái Huế chân thật). Buồn ở chỗ: một năm sau khi anh ra đi, tôi (người con gái làm thơ cứ ngỡ mình là dân Huế) cũng làm một cuộc chia tay đầy ngậm ngùi với Huế. Cô gái ngày ấy đã mãi rời xa, bỏ lại Huế với những mùa mưa nhạt nhòa dần theo tháng năm, để lắm lúc ngồi thẩn thơ nghe mưa Sài Gòn lại mơ màng về một mùa mưa xứ Huế, rất xa...

Với Huế và những mùa mưa Huế xưa, tôi thành kẻ phiêu bạt nên nhiều khi như người mắc nợ, ngẩn ngẩn ngơ ngơ nửa phần hồn còn lại, cứ ngoái đầu nhìn về phía những cơn mưa mà nghe rêu phong ngày xưa cũ gọi về...


Sài Gòn những ngày mưa 2010
V.N
(SH274/12-11)







 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNAnh em Nguyễn Sinh Khiêm - Nguyễn Sinh Cung sống với gia đình trong ngôi nhà nhỏ trên đường Đông Ba. Ngôi nhà giản dị khiêm tốn nằm lui sau cái ngõ thông với vườn nhà Thượng thư bộ Lễ Lê Trinh. Nhưng chỉ cần đi một đoạn ngang qua nhà ông Tiền Bá là đến ngã tư Anh Danh, người ta có thể gặp được các vị quan to của Triều đình.

  • BẮC ĐẢOBắc Đảo sinh 1949, nhà văn Mỹ gốc Trung Quốc. Ông đã đi du lịch và giảng dạy khắp thế giới. Ông đã được nhận nhiều giải thưởng văn học và là Viện sĩ danh dự của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ. Đoản văn “Những biến tấu New York” của nhà văn dưới đây được viết một cách dí dỏm, với những nhận xét thú vị, giọng điệu thì hài hước châm biếm và những hình ảnh được sáng tạo một cách độc đáo. Nhưng trên hết là một cái nhìn lạ hoá với nhiều phát hiện của tác giả khi viết về một đô thị và tính cách con người ở đó. Nó có thể là một gợi ý về một lối viết đoản văn kiểu tuỳ bút, bút ký làm tăng thêm hương vị lạ, mới, cho chúng ta.

  • PHONG LÊTrong dằng dặc của giòng đời, có những thời điểm (hoặc thời đoạn) thật ấn tượng. Với tôi, cuộc chuyển giao từ 2006 (năm có rất nhiều sự kiện lớn của đất nước) sang 2007, và rộng ra, cuộc chuyển giao thế kỷ XX sang thế kỷ XXI là một trong những thời điểm như thế. Thời điểm gợi nghĩ rất nhiều về sự tiếp nối, sự xen cài, và cả sự dồn tụ của hiện tại với quá khứ, và với tương lai.

  • XUÂN TUYNHĐầu thập niên chín mươi của thế kỷ trước, tên tuổi của Lê Thị K. xuất hiện trên báo chí được nhiều người biết tới. K. nhanh chóng trở thành một nhà thơ nổi tiếng. Với các bài thơ: “Cỏ”, “Gần lắm Trường Sa” v.v... Nhiều nhà phê bình, nhà thơ không tiếc lời ngợi khen K.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrần Văn Thà cùng các bạn chiến binh thân thiết tìm được địa chỉ 160 chiến sĩ năm xưa của đảo Cồn Cỏ, các anh mừng lắm, ríu rít bàn cách gọi nhau ra thăm đảo Tiền Tiêu, nơi các anh đã chiến đấu ngoan cường, in lại dấu son đậm trong đời mình, các anh liền làm đơn gởi ra Tỉnh đội Quảng Trị giúp đỡ, tạo điều kiện cho cuộc gặp gỡ này.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN- Đừng ra xa nữa, coi chừng... hỏng cẳng chết trôi con ơi!Nhớ ngày xưa, mẹ tôi vẫn thường nhắc tôi như thế mỗi buổi chiều ra tắm sông Bồ. Hai phần đời người đi qua. Mẹ tôi không còn nữa. Bến Dấu Hàn trên khúc sông Bồ viền quanh phía Đông làng Liễu Hạ năm xưa nay đã “cũ”.

  • NGUYỄN NGUYÊN ANChúng tôi đến Đông trong những ngày cuối hạ. Thị trấn Khe Tre rực rỡ cờ hoa long trọng kỷ niệm 60 năm Ngày thương binh liệt sĩ. Sau bão số 6 năm 2006, tôi lên Nam Đông, rừng cây hai bên đường xơ xác lá, hơn 700 ha cao su gãy đổ tơi bời và hơn 3.000 ngôi nhà bị sập hoặc tốc mái, đường vào huyện cơ man cây đổ rạp, lá rụng dày mấy lớp bốc thum thủm, sức tàn phá của bão Xangsane quả ghê gớm!

  • Trang Web văn học cá nhân là một nhu cầu tương thuộc giữa tác giả và độc giả của thời đại thông tin điện tử trên Internet. Hoặc nói cách khác, nó là nhu cầu kết nối của một thế giới ảo đang được chiếu tri qua sự trình hiện của thế giới đồ vật.So với đội ngũ cầm bút thì số lượng các nhà văn có trang Web riêng, nhất là các nhà văn nữ còn khá khiêm tốn nhưng dù sao, nó cũng đã mở thêm được một “không gian mạng” để viết và đọc cho mỗi người và cho mọi người.

  • NGUYỄN NGỌC TƯSinh năm 1976. Quê quán: huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.Hiện là biên tập viên Tạp chí Bán đảo Cà MauNguyễn Ngọc Tư từng đạt nhiều giải thưởng trung ương và địa phương. Trong đó, truyện vừa Cánh đồng bất tận (giải thưởng Hội Nhà văn Việt ) đã được chuyển ngữ qua tiếng Hàn Quốc. http://ngngtu.blogspot.com

  • VÕ NGỌC LANThuở nhỏ, tôi sống ở Huế. Mỗi lần nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, tôi vẫn gọi đó là ký ức xanh.

  • TÔN NỮ NGỌC HOATôi còn nhớ như in cảnh cả nhà ngồi há miệng nghe chính cậu em tôi là thanh niên xung phong trở về từ Đắc Lắc sau đợt đi khai hoang chuẩn bị đưa dân lập vùng kinh tế mới kể chuyện.

  • TRẦN HẠ THÁPThời gian tuôn chảy vô tình. Con người mê mải cuốn theo dòng cho đến khi nhìn lại thì tuổi đời chồng chất… Ngày thơ dại đã mịt mờ trong kỷ niệm. Mặt trăng rằm tỏa rạng còn đó nhưng dường như không còn là màu trăng xưa cũ. Thứ ánh sáng hồn nhiên một thuở mang sắc màu kỳ diệu không thể nào vẽ được. Dường như chưa trẻ thơ nào ngước nhìn trăng mà sợ hãi.

  • TRẦN HOÀNGCũng như nhiều bạn bè cùng thế hệ, vào những năm cuối thập niên năm mươi của thế kỷ trước, chúng tôi đã được tiếp xúc với Văn học Nga - Xô Viết thông qua nhiều tác phẩm được dịch từ tiếng Nga ra tiếng Việt. Lứa tuổi mười bốn, mười lăm học ở trường làng, chúng tôi luôn được các thầy, cô giáo dạy cấp I, cấp II động viên, chỉ bảo cho cách chọn sách, đọc sách…

  • MAI TRÍHễ có dịp lên A Lưới là tôi lại đến thăm gia đình mẹ Kăn Gương. Song, lần này tôi không còn được gặp mẹ nữa, mẹ đã đi xa về cõi vĩnh hằng với 6 người con liệt sỹ của mẹ vào ngày 08/01/2006.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCNếu cắt một lát cắt tương đối như cơ học trong hành trình trùng tu di tích, cắt thời gian dương lịch của năm 2007, sẽ thấy đây là năm mà người ta nhận ra di sản Huế đang mỉm cười từ trong rêu cỏ dẫu đây đó vẫn còn có nhiều công trình đang thét gào, kêu cứu vì đang xuống cấp theo thời gian tính tuổi đã hàng thế kỷ.

  • NGUYỄN QUANG HÀBấy giờ là năm 1976, đất nước vừa thống nhất. Bắc trở về một mối. Người miền Bắc, miền xôn xao chạy thăm nhau, nhận anh em, nhận họ hàng. Không khí một nhà, vui không kể xiết.

  • HÀ VĂN THỊNH Trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quãng thời gian ở Huế không phải là ngắn. Lần thứ nhất, từ mùa hè 1895 đến tháng 5 - 1901 và lần thứ hai, từ tháng 5 - 1906 đến tháng 5 - 1909. Tổng cộng, Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành (NTT - tên được đặt vào năm 1901) đã sống ở Huế 9 năm, tức là hơn 1/9 thời gian sống ở trên đời. Điều đặc biệt là, bước ngoặt quyết định của NTT đã diễn ra ở Huế; trong đó, việc tham gia vào phong trào chống thuế có ý nghĩa quan trọng nhất.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNVào những năm 1950 đến năm 1954, tại khu rừng Khuổi Nậm, Tân Trào. Ở chiến khu Việt Bắc, người ta thấy một cán bộ khoảng trên dưới 40 tuổi, người tầm thước, nói giọng Nghệ trọ trẹ, thường có mặt ở các cuộc họp quan trọng của Chính phủ kháng chiến để làm thư ký tốc ký cho Trung ương và Hồ Chủ tịch.

  • LÊ HUỲNH LÂMNhững ngày mưa gió lê thê của mùa đông ngút ngàn vừa đi qua, những trận lụt bất thường gây nên bao tan tác, để lại những vệt màu buồn thảm trên gương mặt người dân nghèo xứ Huế, các con đường đầy bùn non và mịt mùng từng đám bụi phù sa, những vết thương còn âm ỉ trong hồn người…

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCCâu chuyện tôi sắp kể với các bạn dưới đây không phải là một câu chuyện thuộc huyền sử về lửa cỡ như ngọn lửa Prométe hay biểu tượng lửa trong đạo Hinđu, hay lửa trong Kinh Dịch tương ứng với phương nam, màu đỏ, mùa hè...