NGUYỄN QUANG HÀ
Ký sự
Tôi là phóng viên của báo Cờ Giải phóng - Thừa Thiên Huế. Sống ở trên chiến khu, đi viết, chúng tôi thường lên các bản vùng cao, đến các đơn vị quân đội đóng trong rừng, gặp các chiến sĩ từ vùng sâu lên,… chứ chưa đi vùng sâu lần nào. Dù biết vùng tranh chấp rất hấp dẫn, nhưng chưa có cơ hội.
Nhà văn Nguyễn Quang Hà - Ảnh: internet
Rất may anh Ngô Kha - Thư ký Tòa soạn gặp tôi:
- Nội dung báo chúng mình phải mở rộng, Hà đi vùng sâu một chuyến nghe.
Mừng quá, tôi nhận lời ngay:
- Thế thì tuyệt quá. Mình định đi vùng nào anh?
- Theo mình nên đi Phong Điền.
Hôm sau tôi đi Phong Điền ngay. Đến Phong Điền, Ban Tuyên giáo cho giao liên dẫn tôi về xã Phong Sơn.
Anh giao liên bảo tôi:
- Dân bị lùa về vùng sâu hết, đồng ruộng bỏ hoang, đi gập ghềnh lắm. Anh cố gắng nghe.
Đúng là đồng mới cày xong, dân bị lùa đi, đồng bỏ hoang, cỏ mọc ngút ngàn, đi rất vất vả. Chín giờ đêm chúng tôi tới Phong Sơn, anh em du kích đang ngồi đợi chúng tôi ở bãi tha ma. Anh em bắt tay nhau, ôm nhau rối rít.
Anh Thái Bình Dương ôm tôi rất chặt:
- Ngày địch về hoành hành cả ngày, đêm chúng tôi chỉ có mấy giờ có thể hoạt động. Nghe anh về, đọc bài của anh nhiều rồi, giờ mới được gặp, chúng tôi mừng lắm. Chúng tôi giao anh cho Hoàng Tiến Dũng. Dũng lo ăn ở cho anh, đi đâu Dũng sẽ dẫn anh đi.
Thái Bình Dương giới thiệu với tôi từng người. Dũng nhào tới ôm lấy tôi:
- Có Dũng đây rồi, anh đừng lo gì cả. Khó khăn gì sẽ có Thái Bình Dương lo.
Giữa lúc đó có tiếng súng nổ ở phía cửa ấp chiến lược. Dương bảo Dũng ở lại lo cho tôi, còn lại tất cả anh em tỏa ra xem có vấn đề gì từ tiếng súng… Hơn hai giờ sau, Dương, Vũ, Khôi quay về, cho biết chuyện buồn đã xảy ra: Em Bảo con chị Hậu, mới 14 tuổi, nhưng rất yêu anh em du kích, nên bắt chước các anh chị đi tìm hiểu xem cảnh sát đêm nay có đi tuần tra không. Em ra khỏi cổng ấp, liền bị bọn cảnh sát mai phục, thấy em chúng nổ súng liền. Em Bảo chết. Chúng đổ tội cho em là Việt cộng về làng, có đi kiện cũng không được.
Ba giờ sáng Dũng đưa tôi về nhà, giới thiệu tôi với ba mẹ em. Ông bà nhận ngay tôi là con nuôi, xưng ba mẹ thân tình như thể đã thương yêu từ lâu rồi. Ba của Dũng dặn tôi:
- Ở vùng tranh chấp sống chết cách nhau gang tấc con ạ. Tội thằng cu Bảo quá. Con về đây phải hết sức thận trọng. Mọi thứ đều phải tuyệt đối bí mật nghe con. Con cứ bám thằng Dũng mà hoạt động.
Bốn giờ ăn cơm sáng xong, Dũng đưa tôi ra nằm ngủ ở hầm bí mật ngoài bờ sông Bồ. Hầm một người, nằm hai người thì chật, nhưng tôi rất yên lòng vì có Dũng bên cạnh. Riêng sống trong hầm, đủ biết anh em bám trụ vất vả biết nhường nào. Cả buổi sáng an yên, trưa Dũng mở nắp hầm, cùng tôi lên nằm trên nắp hầm, dưới bóng cây cho thoáng mát.
Tôi hỏi Dũng:
- Tối hôm nay chúng mình làm gì?
Dũng đáp:
- Hôm nay 49 ngày mất của chị Cầm, chúng ta phải tới thắp hương cho chị. Ở đó anh sẽ gặp nhiều người cần gặp.
Dũng kể chuyện chị Cầm rất cảm động. Chồng chị là liệt sĩ, hy sinh trong chiến dịch Mậu Thân. Chị có cơ sở trong hàng ngũ quân đội Sài Gòn, vậy nên biết có trận càn, chị lập tức ra khu vực hầm bí mật của bộ đội địa phương, báo cho anh chị em biết để tránh. Không ngờ chị đạp vào mìn anh em cài phòng thủ. Mìn nổ, chị ngã gục. Anh em du kích biết có chuyện, lên hầm tới gặp chị Cầm, chị bị thương nặng, chỉ kịp báo tin khẩn cho anh em biết, rồi chị giã biệt ra đi mãi mãi.
Nhờ có chị Cầm, anh em mình thoát trận càn. Lo đám tang cho chị xong, cơ sở chia nhau nhận nuôi các con của chị. Người không phải nuôi thì góp gạo để cùng nhau lo cho các cháu.
Quả nhiên, mọi người đến thắp hương cho chị Cầm rất đông. Được Dũng giới thiệu, tôi được xem như người quen rất thân tình. Đặc biệt có chị Thỏn và chị Chiện còn đem quà tặng cho tôi, làm tôi cảm động rưng rưng. Chị Thỏn cho tôi hai cục pin (chị giấu kỹ trong ngực): “Em dùng đi đêm cho tiện. Hết chị lại mua cho. Ở đất lạ, đi lại phức tạp lắm”. Chị Chiện cho tôi bộ quần áo nhuộm nâu: “Quần áo ni giặt rất mau khô, mặc nhẹ nhàng và không bị lộ mình là lính”.
Hai chị còn mời tôi về chỗ hai chị ở, tâm sự với nhau được nhiều. Tôi đã nhận lời và mong mau đến chỗ hai chị sống.
Mấy ngày sau sắp xếp được, Dũng đưa tôi tới nhà chị Chiện và nhà chị Thỏn. Đó là hai ngôi nhà tranh dựng sát nhau. Nhà nào cũng ba gian và căn bếp nhỏ. Làng Hiền An (có thôn Hiền An của các chị) vì ở gần chân núi, sát chiến khu của cách mạng, nên bị quân địch phá tan nát, bây giờ chỉ là một bãi cỏ xanh.
Tôi hỏi:
- Sao hai chị lại ở đây?
Chị Chiện đáp:
- Bốn ông chồng chúng tôi đều là người theo Việt Cộng cả. Chồng chị và chị Thỏn đều là liệt sĩ. Chồng chị Thảo và chị Hiền hiện đang bị tù ở Côn Đảo. Chúng tôi sống với nhau như một gia đình. Đùm bọc nhau mà sống.
Chị Thỏn tiếp lời chị Chiện:
- Cũng vì một tên ác ôn mà bốn gia đình chúng tôi tan hoang cả. Phải nói đúng là nhiều gia đình Phong Sơn cùng chung cảnh ngộ. Tên nó là Thế.
Chuyện rằng tên Thế làm biệt kích cho Mỹ. Khi về làng, nhà ai ra sao, hắn nắm được và báo cho địch biết hết: Nhà nào theo Việt Cộng, nhà nào có chồng tập kết ra Bắc… Cả làng Hiền An, cả xã Phong Sơn, vì vậy ai cũng căm thù hắn, ai cũng mong trả nợ món thù này. Bây giờ tên Thế vẫn ở Huế, nó có dám lang thang trong làng, trong xã này đâu. Các chị bị đuổi khỏi đất Hiền An, lên đây mua đất, cất tạm nhà, dựa dẫm vào nhau mà sống.
Càng đi với Dũng, càng thấy đất và người Phong Sơn chịu nhiều điêu đứng. Mỗi gia đình một hoàn cảnh khác nhau, vắng sự bình yên, vui vẻ, nên khát khao đất nước thống nhất, hòa bình. Càng đi với Dũng, càng gặp được nhiều nhân chứng. Tôi muốn viết lắm, nhưng tất cả phải bí mật, nên lòng lại dặn lòng, giữ lấy tư liệu, thế nào rồi cũng sẽ có lúc viết được.
Bỗng trong cơ sở xôn xao một dư luận: sắp đến ngày kỵ cha của Thế. Vậy chắc là Thế sẽ về kỵ cha mình.
Dũng cũng bảo tôi:
- Đây là cơ hội, anh em mình tính thế nào đây?
Đúng như dự đoán, Thế về kỵ cha. Anh em bộ đội địa phương đã đóng giả làm lính Sài Gòn vào dự, đã bắn Thế chết ngay trong buổi trưa ngày kỵ. Điều không ngờ là Thế bị giết, địch đã điều động quân về càn quét triệt để Phong Sơn. Nhiều người bị bắt, cũng có người bị giết.
Thái Bình Dương gặp tôi nói:
- Tình hình căng quá. Anh ở đây không yên. Lỡ hầm bị phát hiện thì nguy hiểm lắm. Anh về lại chiến khu đi, bao giờ tạm ổn, chúng tôi sẽ lại đón anh về.
Một chuyến đi thực tế nửa chừng, nhưng đầy tư liệu. Tôi rất hy vọng ở chuyến đi tiếp theo. Một câu tự hỏi cứ vang lên quanh quẩn bên tôi: Mình sẽ viết thế nào đây!
N.Q.H
(TCSH401/07-2022)
LÊ KHAI Bút kýAnh đưa tôi một tờ giấy cuộn tròn và nói: Tuần qua tôi đi tìm mộ liệt sĩ ở Truồi (huyện Phú Lộc). Tìm một mộ mà phát hiện ra tám mộ. Buồn! Tôi làm bài thơ. Anh xem và chữa giúp. Cả đời tôi chưa quen làm thơ. Anh chào tôi rồi vội vã về vì đang có việc cần.
HÀ KHÁNH LINH Trích Hồi ký… Mùa xuân 1967, địch tăng cường đánh phá suốt ngày đêm, ngày một ác liệt hơn. Các trạm khách dọc tuyến đường 559 không ngày nào không bị đánh trúng hoặc B52 hoặc bom tọa độ, hoặc pháo tầm xa. Ngày nào cũng có thương vong. Có những đơn vị trên đường hành quân vào Nam chưa đến địa điểm tập kết đã bị đánh tơi tả, chỉ còn sót lại vài người. Các cơ quan đơn vị đóng chung quanh khu vực phần nhiều đã bị đánh trúng.
TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ Tạp bútNhư nhân duyên, như định mệnh, cuộc đời tôi như thu hết vào trong một chung trà. Tuổi thơ đã qua, bây giờ và sẽ mãi mãi, cuộc đời tôi luôn vương vấn một hương trà. Tôi thường hay nói đùa cùng bằng hữu rằng sinh ra và lớn lên được ướp trong hương trà, tôi cũng chỉ mơ một ngày về thiên cổ được vẫy tiễn linh hồn bằng một chén trà ngon, được chôn theo cùng là một bộ ấm trà quý nhất và được vẫn cùng người “hồng nhan tri kỷ” đồng ẩm tương phùng ở thế giới bên kia!!!
TRẦN KIM HỒĐảo Cồn Cỏ là vọng gác tiền tiêu, là con mắt của Vĩnh Linh - khu Vĩnh Linh là tiền đồn của miền Bắc XHCN, là hậu phương trực tiếp của tiền tuyến lớn miền Nam; do đó đảo Cồn Cỏ có vị trí vô cùng quan trọng, mặc dù diện tích chỉ có 4km2. Mât Cồn Cỏ, miền Bắc XHCN trực tiếp bị uy hiếp, nhất là vào lúc nguỵ quyền Ngô Đình Diệm không ngớt hô hào lấp sông Bến Hải, Bắc tiến; đế quốc Mỹ từng trắng trợn tuyên bố biên giới Hoa kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17.
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGHai cái máy lạnh hai cục trong căn phòng 40m2 của nhà hàng Hoa Chuối cộng với cả trận mưa chiều đột ngột tầm tã không làm dịu được sức nóng từ tấm thịnh tình của gần 50 cộng tác viên thân thuộc của tạp chí Sông Hương tại thủ đô Hà Nội.
TÔ VĨNH HÀTrong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, 60 năm qua là một chặng đường đặc biệt. Chưa bao giờ dân tộc ta phải đương đầu với nhiều thử thách đến như thế, phải chiến đấu và chiến thắng nhiều kẻ thù đến như thế. Pháp rồi Nhật, Tưởng và Anh; hết Mỹ đến Khơmer “đỏ”... Kẻ thù và đau khổ nhiều đến mức tưởng chừng như đất nước Việt Nam được tạo hoá sinh ra là để cho các loại kẻ thù nhòm ngó, tìm mọi cách thôn tính.
NGÔ MINHTừ tháng 7-1954, Hiệp định Giơnevơ ký kết cho đến cuối năm 1964 đôi bờ giới tuyến Hiền Lương lặng im tiếng súng, nhưng đây là 11 năm diễn ra cuộc đối đầu văn hóa nóng bỏng, quyết liệt nhất giữa ta và địch.
PHAN THỊ THU QUỲ Trên bờ Hương Giang êm đềm, có ngôi nhà nhỏ tôi được sinh ra ở đó. Hằng ngày tung tăng cắp sách đến trường Đồng Khánh, tôi cũng nhảy nhót trên bờ Hương Giang. Lớn lên tôi hoạt động nội thành thường đến hò hẹn bên cây phượng vỹ trước cửa Thượng Tứ, nơi đó là địa điểm giao nhận những “gói nhỏ”, để nhận công việc và để nhớ mật hiệu. Cho nên trên bờ Hương Giang tôi đã ngắm dòng sông thơ mộng với tôi gắn bó biết bao từ tuổi ấu thơ cho đến bước vào đời.
NGUYỄN VĂN VINH Bút ký Thôn Hiền An, xã Vinh Hiền là một thẻo đất cát bạch sa cuối phá Tam Giang phía Bắc vào. Như một ốc đảo ba bề, bốn bên là nước, nếu không có đường 49B chạy dọc phá đến cùng đường, tận biển. Và mỗi ngày, hai chuyến xe đò chở khách cùng mấy chục chuyến đò ngang phá qua lại Lộc Bình đem chút xôn xao thị tứ, phố chợ về với thôn, xã thì Hiền An càng xa xôi heo hút.
TRẦN HOÀI Ghi chépThung lũng A Lưới chạy dài theo hướng Bắc Nam đến vài chục km. Đó là một thung lũng đẹp, là một vị trí quân sự chiến lược, là nơi giao tranh ác liệt giữa ta và địch trong cuộc kháng chiến vừa qua...
LÊ BÁ ĐẢNGBạn của tôi rất nhiều. Năm ba bạn mà tôi nhắc nhở ra đây phần nhiều là bác sĩ, kỹ sư, giáo sư còn nghệ sĩ thì chất cả đống.
NGUYỄN THẾ QUANGMùa hạ, trời Bát Tam Boong trong xanh. Những hàng cây thốt nốt lặng lẽ kiêu hãnh xòa những tán lá xanh che mát cả khu đồi. Trong căn nhà của sở chỉ huy Sư 179 quân đội Cămpuchia, trung tá Nguyễn Văn Du chuyên gia của bộ đội Việt Nam cởi thắt lưng ra treo khẩu K54 lên vách. Anh vui mừng trước khả năng chiến đấu ngày càng tốt của quân đội bạn. Trận đánh trả lực lượng quân đội Thái Lan bảo vệ sáu nghìn dân tị nạn ở chòm Rumthumây diễn ra nhanh chóng.
TỐ HỮU Trích chương V, hồi ký Nhớ lại một thời
VÕ MẠNH LẬP Ghi chépTrong những ngày tháng ba, hai lẻ sáu trời Hà Nội đẹp và dễ chịu. Cái nắng vàng phủ tràn thành phố, tôn màu của cây thêm xanh biếc, ngói trên các mái nhà như thắm thêm lên, đường phố đi lại thanh thoát và đặc biệt có chút se lạnh vào sáng sớm như sợi tơ vương của hơi thở cuối mùa đông còn lưu sót lại.
NGUYỄN QUANG HÀ Bút kýMã Yên là tên trên bản đồ của một ngọn núi, còn dân địa phương thì gọi đó là núi Yên Ngựa. Núi Yên Ngựa là một trong những ngọn núi ngoài cùng về phía Đông của dãy Trường Sơn.
NGUYỄN QUANG HÀ Bút kýNắng chiều vàng trải dài trên những hàng bia trắng như mơ, như kỳ ảo. Đi trong nghĩa trang tôi có cảm giác mình như đang ngỡ ngàng, có cái gì đó nghèn nghẹn nơi cổ khi hàng hàng những bia trắng dài kia không có một nét mực ghi tên. Đó là những tấm bia vô danh.
NGUYỄN TRI TÂMNgười kể chuyện phải lục tìm những tấm ảnh lưu niệm để nhớ chính xác hơn. Sau tấm ảnh đen trắng cỡ 18x24, tướng Hoàng Văn Thái kí tên và ghi rõ “Thân tặng đồng chí trung tá Lương Văn Chính, người chiến sĩ Điện Biên năm xưa, huyện đội trưởng huyện đội Điện Biên. Kỉ niệm ngày lên thăm Điện Biên 3-4-1984”.
TẤN HOÀIHưởng ứng cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí MinhĐêm đó, Bác nghỉ lại tại Cọt Mạ - một thị trấn nhỏ của Trung Quốc, thị trấn nhỏ như một bản miền núi miền nam Trung Quốc, có một cái chợ nhỏ, cách biên giới Việt Nam khoảng trên bốn cây số. Tất nhiên, đó là một cơ sở của cách mạng Trung quốc. Hôm sau, Bác về nước cùng với những đồng chí Việt Nam đi đón Bác trong đó có Dương Đại Lâm, Lê Quảng Ba, Bằng Giang. Những người này về sau trở thành cán bộ lãnh đạo của khu tự trị Việt Bắc. Bác về đúng vào tháng 2 năm 1941. Bác đã ghi trên một phiến đá trong hang Cốc Bó, nằm trong khu vực Pác Bó. Gia tài Bác chỉ có một chiếc va li cũ đan bằng mây, bên cạnh một chiếc máy đánh chữ mà Bác luôn luôn xách bằng tay.
HOÀNG QUỐC HẢI Bút kýVì sao khi Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) được nước, cung điện nơi thành Hoa Lư các vua Đinh, vua Lê dựng như “điện Bách Bao thiên tuế, cột điện dát vàng, dát bạc làm nơi coi chầu, bên đông là điện Phong Lưu, bên tây là điện Cực Lạc, rồi làm lầu Đại Vân, dựng điện Trường Xuân làm nơi vua ngủ, bên cạnh điện Trường Xuân lại dựng điện Long Lộc, lợp bằng ngói bạc...”, lâu đài điện các như thế, tưởng đã đến cùng xa cực xỉ.
JEAN-CLAUDE GUILLEBAUDLà một nhà báo - nhà văn Pháp thuộc “thế hệ Việt Nam”, thế hệ những người Pháp mà dấu ấn của cuộc chiến Đông Dương đã và sẽ in đậm trong suốt cuộc đời. Ông có mặt ở Việt Nam vào nhiều mốc lịch sử trước 1975, và từ đó ý định trở lại đất nước Việt Nam vẫn luôn thôi thúc ông. Cuốn “Cồn Tiên” được viết sau chuyến đi Việt Nam từ Nam chí Bắc của ông năm 1992. Bản Công-xéc-tô vĩnh biệt này, có thể nói, nó là nỗi ám ảnh của người pháp về Điện Biên Phủ ở Việt Nam. Hiện Guillebaud đang công tác tại Nhà Xuất bản Le Seuil (Paris).