Nhớ lại vài câu chuyện nhỏ về thầy Võ Liêm Sơn

10:27 26/01/2010
NGUYỄN KHOA BỘI LANMột hôm chú Văn tôi (Hải Triều Nguyễn Khoa Văn) đọc cho cả nhà nghe một bài thơ mà không nói của ai.

Nhà văn lão thành Nguyễn Khoa Bội Lan - Ảnh: antgct.cand.com.vn

           Diêm vương nếu bắt tớ đi ngay
           Tớ cũng lần khân khất ít ngày
           Cho gặp tình nhân mà hỏi thử
           Lời thề sinh tử tính sao đây?


Cha tôi nói: "Ý thơ này có thể là của thầy Võ Liêm Sơn".
Cả nhà tôi rất thích bài thơ ấy và chẳng bao lâu một số trí thức Huế ưu thời mẫn thế đều thuộc bài thơ. Tôi đem chuyện ấy nói lại với thầy, thầy bảo: "Cái anh Văn "chạ chạ", buồn sự đời thầy viết bậy bạ cho vui, hay ho chi mà đem đi phổ biến". Rồi thầy đọc cho chúng tôi nghe hai bài thơ trong tập "Cô Lâu Mộng" mà thầy đang viết.

Bài của "Nàng" có đoạn:
                        Trời không cùng đất không cùng
                        Núi người chồng chật
                        Bể người mênh mông
                        Ờ sao núi toan thành vực
                        Bể toan thành đồng
                        Tấn tuồng tranh cạnh xông mưa gió
                        Giọt máu oan cừu đỏ núi sông
                        Thôi thôi, thôi Thánh hiền, thôi Tiên Phật
                        Thôi hào kiệt, thôi anh hùng
                        Ngàn năm sự nghiệp nước về Đông...

Bài của "Chàng" họa lại có đoạn:
                        Trời khó hỏi
                        Đất khó hỏi
                        Sự thế đảo điên
                        Kiếp người chìm nổi
                        Ai giàu, ai mạnh, ai hiển vinh
                        Ai đói, ai hèn, ai tội lỗi
                        Máu ai chảy thành sông
                        Xương ai chồng tày núi
                        Mà ai cơ nghiệp vững đời đời
                        Mà ai tượng đồng cao vòi vọi
                        Thần Phật hết linh thiêng
                        Thánh hiền hết tài giỏi...

Tôi hỏi thầy:
- Ai thầy cũng bảo thôi cả vậy thì đi theo ai?
Hôm đó cũng như "Vầng nguyệt trong thơ" thầy cũng lặng thinh không nói. Về nhà tôi bảo chú Văn tôi: có lẽ thầy còn giữ bí mật, chú Văn tôi cười:
- Và có lẽ thầy cũng đang bí.

Cách đó ít lâu chúng tôi đi nghe ông Nguyễn Thế Truyền nói chuyện tại nhà cụ Phan Bội Châu. Khi về chúng tôi ghé lại nhà thầy. Tôi kể cho thầy nghe những gì mà ông Nguyễn Thế Truyền nói về Ông Nguyễn Ái Quốc, nghe xong thầy hỏi: "Ông ta có nói gì nữa không" chú Văn tôi trả lời:

- Ông ta có nói nhiều chuyện lắm nhưng con nhỏ này chỉ nhớ chuyện ông Nguyễn Ái Quốc thôi.
Trầm ngâm một lúc thầy nói:
- Hay là thầy trò ta đi theo ông Nguyễn Ái Quốc vậy.

Năm 1947 khi chúng tôi phụ trách Ban báo chí ấn loát khu bốn thì bác Hồ Tùng Mậu chủ tịch Ủy ban kháng chiến bảo tôi về Hà Tĩnh thăm thầy. Bác Mậu gởi cho thầy một bức thư đề nghị thầy ra khu tham gia kháng chiến.

Hai hôm sau thầy đi ngay với chúng tôi. Ra Thanh Hóa thầy ở trong ban Liên Việt nhưng thầy không ở bên cơ quan mà về nhà báo ở với chúng tôi.

Đầu năm 1948 tôi vào nam thầy trò lại xa nhau.

Năm 1952 khi còn ở bên nước bạn thì tôi nhận được thư của chú Văn tôi báo tin thầy đã mất. thầy đã gặp Hồ Chủ Tịch và Bác có tặng thầy một bài thơ như sau:
                        Tặng Võ Công
                        Thiên lý công tầm ngã
                        Bách cảm nhất ngôn trung
                        Sự dân nguyện tận hiếu
                        Sự quốc nguyện tận trung
                        Công lai ngã hân hỉ
                        Công khứ ngã tư công
                        Tặng công chi nhất cú
                        Kháng chiến ắt thành công

Tạm dịch:
                        Tặng cụ Võ Liêm Sơn
                        Ngàn dặm cụ tìm đến
                        Một lời trăm cảm thông
                        Thờ dân tròn đạo hiếu
                        Thờ nước vẹn lòng trung
                        Cụ đến, tôi mừng rỡ
                        Cụ đi tôi nhớ nhung
                        Một câu xin tặng cụ
                        "Kháng chiến ắt thành công".


N.K.B.L
(120/02-99)



 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÊ HUỲNH LÂMTừ “Vọng sông quê” đến “Mang” của Nhà xuất bản Trẻ, rồi “Gửi thiên thần” của Nhà xuất bản CAND và bây giờ là “Đồng hồ một kim” của Nhà xuất bản Văn Học” được gửi đến bạn đọc, Phan Trung Thành đã khẳng định được gương mặt thơ của thế hệ 7.X. Ở đây, số lượng tác phẩm không định hình nên một gương mặt thơ, mà chính những câu chữ đã vẽ lên chân dung một nhà thơ.

  • TIỂU VĂNGiữa tháng 11 năm 2008, tôi được dự một buổi hội thảo nói chuyện chuyên đề về sách tại Zen Café (phố Ngọc Hà). Đây là buổi nói chuyện của tác giả - dịch giả Lê Thị Hiệu, với bút danh thường gọi là Hiệu Constant, giới thiệu về tác phẩm đầu tay của chị - tiểu thuyết Côn trùng. Buổi nói chuyện nằm trong chương trình “Tôn vinh Văn hóa Đọc” do Công ty Truyền thông Hà Thế khởi xướng và tổ  chức.

  • HÀ KHÁNH LINHHồng Nhu truyện ngắn, Hồng Nhu thơ… Lần đầu tiên nhìn thấy Hồng Nhu xuất hiện tiểu thuyết tôi thực lòng rất mừng. Tuy nhiên đọc gần hết hai chương đầu nỗi lo cứ cồm cộm lên trong tâm thức nhưng chính gần cuối chương II cái chất tiểu thuyết mới bắt đầu hé lộ ra, để rồi từ đó lôi cuốn người đọc cho đến hết truyện.

  • LÊ QUANG TƯCông trình Văn học Việt Nam thế kỷ X-XIX (những vấn đề lý luận và lịch sử)(1) được biên soạn bởi Trần Ngọc Vương (chủ biên), Trần Nho Thìn, Nguyễn Văn Thịnh, Trần Nghĩa, Đoàn Lê Giang, Kiều Thu Hoạch, Cao Tự Thanh..., do nhà xuất bản Giáo dục in năm 2007, dày 912 trang.

  • LÝ HOÀI XUÂN(Nhân đọc tập thơ “Mẹ!” của Văn Lợi – NXB Thuận Hoá, 2006)

  • TRẦN HUYỀN SÂMNhư con thú hoang ôm vết thương lòng đi tìm nơi trú ẩn, gương mặt người thiếu phụ mang nỗi buồn tiền kiếp - tự ngàn xưa: Người thiếu phụ có đôi mắt buồnĐi lang thang trong chiều mùa hạNỗi cô đơn lây sang cả đá...

  • MAI VĂN HOANNgười đời thì lập ngôn còn Nhụy Nguyên thì “lập thiền”. Thú thực tôi chưa hiểu hết dụng ý của Nhụy Nguyên khi đặt tên cho tập thơ đầu tay của mình là Lập thiền. Bản thân từ Hán Việt vốn ẩn chứa nhiều tầng nghĩa.

  • BỬU NAMI. Văn học Mêhicô ở thế kỷ XX, có lẽ được xem như một nền văn học năng động và sáng tạo nhất Châu Mỹ La tinh. Táo bạo trong những tìm tòi mới, linh hoạt uyển chuyển trong cách diễn tả, đa dạng phong phú trong cách sử dụng các cấp độ ngôn ngữ, sáng suốt trong cách chọn lựa đề tài, hình thức, ngôn ngữ: tiểu thuyết và truyện ngắn ở Mêhicô tạo được những không gian sáng tạo và đổi mới một cách tự do.

  • NGUYỄN TÝ51 bài thơ cùng 8 ca khúc được phổ thơ của Trần Hữu Lục vỏn vẹn 120 trang qua tập thơ “Vạn Xuân” (*) mới nhất của anh, người đọc đồng cảm cùng tác giả- một người con xứ Huế tha phương.

  • NGÔ MINHNhà xuất bản Văn nghệ vừa ấn hành tập ký “Phùng Quán- Ba phút sự thật”, tập hợp mười lăm bài viết, ký thấm đẫm chất nhân văn rất của cố nhà thơ nổi tiếng Phùng Quán.

  • NGUYỄN ĐÔNG HIẾUTrong cuộc đời làm xuất bản của mình, Phùng Quán là một nhà văn đã để lại cho tôi những ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc, khó quên.

  • PHẠM PHÚ PHONG Tập nhật ký Tây tiến viễn chinh (do Đặng Vương Hưng biên soạn và giới thiệu, Phạm Tiến Duật viết lời bạt, Nxb Hội Nhà văn, 2005) của liệt sĩ Trần Duy Chiến, bắt đầu viết từ ngày 7.10.1978, khi anh mới nhập ngũ, đến ngày 25.6.1980, trước khi anh hy sinh gần một tháng.

  • BỬU NAM giới thiệu1. Cuốn tiểu thuyết best - seller “Hồi ức của một Geisha” của nhà văn Arthur Golden vừa được dựng thành phim. Nhà văn Arthur Golden đã dành cả 40 năm cuộc đời mình tìm tư liệu về cuộc sống của những nàng Geisha ở Nhật Bản, để sáng tạo nên một cuốn tiểu thuyết Best - Seller giữ vị trí được bạn đọc thế giới yêu thích lâu dài trên danh mục những tiểu thuyết bán chạy nhất do báo New York Times bình chọn.

  • HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc tập thơ Lệ Thuỷ mút mùa của Ngô Minh)Nói đến Ngô Minh là nói đến thế - giới - cát. Cát trong suy nghĩ của Ngô Minh như thứ ngôn ngữ minh triết về đời sống con người. Là vật chất, nhưng không giản đơn như mọi thứ vật chất. Cát có thể nóng như lửa, lại mềm mại dịu êm dưới chân người. Li ti từng hạt nhỏ, vậy mà bên nhau cát xây nên luỹ nên thành án ngữ dọc biển bờ Tổ quốc. Cát hiền lành trong sạch, khi giận giữ có thể biến thành những cơn bão khủng khiếp.

  • BÙI ĐỨC VINH(Nhân đọc tập thơ “RỖNG NGỰC” của Phan Huyền Thư, NXB Văn học 2005)

  • PHAN THUẬN AN"Khóc Bằng phi" hay "Khóc Thị Bằng" là một bài thơ nổi tiếng xưa nay, nhưng tác giả của nó là ai thì chưa được xác minh một cách cụ thể. Người ta thường cho rằng bài thơ trữ tình này là do vua Tự Đức (1848-1883) làm ra để thương tiếc một bà cung phi tên là Thị Bằng còn rất trẻ đẹp nhưng chết sớm.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong văn học Nga thế kỷ XX, Aleksandr Solzhenitsyn là một trong những nhà văn lớn, nổi tiếng có nhiều đóng góp cho nền văn học Nga trên nhiều phương diện, một người suốt đời tận tụy và kiên trì đấu tranh cho sự chiến thắng của nghệ thuật, của sự thật đối với những cái xấu, cái ác. Nhưng ông cũng là một nhà văn có cuộc đời đầy thăng trầm, bất hạnh và phức tạp.

  • BÙI LINH CHIAnnemarie Selinko (1914-1986) là một nhà báo, nhà tiểu thuyết gặt hái được một số thành công trong sự nghiệp tại Tổ quốc của mình là nước Áo. Trong những tháng ngày chạy nạn 1943, bà đã cùng chồng đến Thụy Điển, đã chứng kiến những làn sóng người tị nạn phải rời bỏ quê hương trước ý chí ghê gớm của kẻ độc tài khát máu Himler gây ra.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Nobel là một giải thưởng danh giá nhất, nhưng cũng chứa đựng nhiều nghịch lý nhất trong tất cả các giải thưởng. Riêng giải Nobel văn học, bao giờ cũng gây tranh cãi thú vị. Bởi vì, Hội đồng Viện Hàn Lâm Thụy Điển phải trung thành với lời di chúc của Alffred Nobel: trao tặng giải thưởng cho người sáng tạo ra tác phẩm văn học xuất sắc nhất, có khả năng định hướng lý tưởng cho nhân loại.

  • NGUYỄN THỊ MAI(Nhân đọc tập thơ “Ra ngoài ngàn năm” của nhà thơ Trương Hương - NXB Văn học – 2008)