Nhìn lại vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật

16:47 10/06/2009
TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

Chẳng hạn, đánh giá lại tình hình phản ánh hiện thực của văn học ở giai đoạn trước, có ý kiến đã tìm nguyên nhân từ mục đích tuyên truyền để cắt nghĩa cho sự xuất hiện những tác phẩm minh hoạ. Nhìn lại mối quan hệ giữa văn nghệ với chính trị cũng có người cho văn nghệ, do chỗ hướng tới tuyên truyền vì mục đích chính trị, nên không để lại được những tác phẩm lớn có giá trị lâu dài. Ngay cả trong những bài viết, những cuộc hội thảo về chức năng của văn học, về phương pháp sáng tác.v.v... thì vấn đề này vẫn thảng hoặc được nói đến.

Xét ra, vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật đã chi phối bản thân nghệ thuật không ít. Ảnh hưởng của nó đã lan toả trên nhiều bình diện, từ quan niệm lý thuyết đến thực tiễn sáng tác, từ chủ thể sáng tạo đến khách thể tiếp nhận tác phẩm. Và xuyên suốt trong chiều dài lịch sử kể từ ý kiến của đồng chí Trường Chinh chính thức phát biểu tại Hội nghị văn hoá toàn quốc lần thứ hai (1948) đến nay vẫn còn mở ra nhiều khuynh hướng đánh giá khác nhau, thậm chí đối lập nhau khi vận dụng quan điểm này để lý giải tình hình văn học đã qua.

Muốn có được một cách nhìn thoả đáng, ít ra trên phương diện lý thuyết, rõ ràng vấn đề tuyên truyền trong tác phẩm nghệ thuật cần được triển khai xem xét trong tương quan của sự phát triển giữa lý luận và thực tiễn sáng tác, đặc biệt phải chú ý gắn nó với yêu cầu chính trị qua từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Riêng ở đây, chúng tôi muốn trở lại với ý kiến ban đầu của đồng chí Trường Chinh phát biểu từ hội nghị nêu trên để đề xuất một số khía cạnh cần được khẳng định và đổi mới trong tư duy lý luận hiện nay khi đề cập đến vấn đề này trong tác phẩm văn nghệ.

Đánh giá và tổng kết các đợt tranh luận đầu những năm 40 của thế kỷ XX về các quan điểm khác nhau xung quanh vấn đề tuyên truyền và nghệ thuật, đồng chí Trường Chinh đã nêu lên một kết luận có tính khái quát: "Tuyên truyền cao tới một mức nào đó thì tuyên truyền trở thành nghệ thuật. Nghệ thuật thiết thực tới một mức nào đó thì nghệ thuật có tính chất rõ rệt là tuyên truyền" (Về văn hoá và nghệ thuật - T1 - Nxb Văn học - Hà Nội - 1985 - trang 113). Kết luận này chỉ ra mối quan hệ có tính nhân quả giữa tuyên truyền và nghệ thuật với điều kiện khi cả hai đều đạt đến độ giá trị của nó - tuyên truyền phải cao, nghệ thuật phải thiết thực. Vậy xem sự chuyển hoá này có diễn ra như một tất yếu hay không. Nói cách khác, mỗi khi tuyên truyền và nghệ thuật đã đạt được yêu cầu nêu trên thì có phải bao giờ mỗi loại như vậy cũng bao hàm trong nó phẩm chất hay đặc tính của loại kia hay không? Điều đó, chỉ có thể trên cơ sở phân tích về thực tiễn văn học đã qua may ra mới có thể khẳng định được.

Trước hết, nên hiểu tuyên truyền là khái niệm chỉ gắn liền với những vấn đề chính trị cụ thể: "nói tuyên truyền tức là nói chính trị". Quan hệ giữa nghệ thuật và tuyên truyền nếu không xem là hoàn toàn thì cũng một phần biểu hiện mối quan hệ giữa văn nghệ và chính trị. Vậy nên dễ nhận thấy, mỗi khi hoàn cảnh xã hội cho phép xem xét lại mối quan hệ này thì lập tức, vấn đề nghệ thuật và tuyên truyền cũng được đưa ra thẩm định, đánh giá. Thậm chí, đó còn là điểm nóng của nhiều cuộc tranh luận khá sôi nổi. Chứng cứ là tình hình của đời sống văn học nước ta đã diễn ra những năm 40, tiếp theo vào những năm 1957, 1958; và đặc biệt là từ khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Với ý nghĩa đó, quan niệm trên của đồng chí Trường Chinh đã phản ánh đúng nét nổi bật của một bộ phận văn chương vốn ra đời trong những điều kiện lịch sử nhất định. Chẳng hạn, thơ văn của các lãnh tụ cách mạng như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh trước đây cũng như của Hồ Chí Minh và của một số đồng chí lãnh đạo Đảng ta sau này là những ví dụ tiêu biểu. Điểm giống nhau của hai cụ Phan và Hồ Chí Minh là chưa bao giờ tự nhận mình là nhà văn, nhà thơ và trong tư tưởng không hề có ý lập thân bằng sự nghiệp văn chương. Với các vị, văn chương chỉ là một bộ phận nhỏ trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng, là một phương tiện tuyên truyền cổ động có hiệu lực trên mặt trận kháng chiến, kiến quốc. Ấy vậy, một số sáng tác của Phan Bội Châu trước cách mạng nhằm mục đích tuyên truyền vốn có sức mạnh thôi thúc cả một thế hệ độc giả lên đường tranh đấu thì "giờ đây, còn nhiều người vẫn đọc thuộc lòng và ngâm nga nhiều đoạn văn, nhiều bài thơ (...) một cách khoái trá" (Đặng Thai Mai - Thơ văn Phan Bội Châu - Nxb Văn hoá - 1960 - trang 84). Còn thơ văn Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, chỉ kể riêng phần truyện được Người viết để tuyên truyền cho mục đích chính trị thì rất đúng như Phạm Huy Thông nói: "Chính vì nhằm đạt kết quả thiết thực nhất cho nên rất sinh động, sôi nổi tình cảm, ước mơ, do đó lại rất văn nghệ". (Mấy lời nói đầu Truyện và Ký của Nguyễn Ái Quốc - Nxb Văn học - 1974 - trang 17). Nhà thơ Sóng Hồng - bút danh của đồng chí Trường Chinh cũng đã có lần tâm sự với bạn đọc: "Những bài thơ tôi làm cốt để phục vụ cho tuyên truyền cách mạng". Đúng vậy! Là thi sĩ cũng là bài thơ thuộc loại những tác phẩm nêu trên. Tác giả viết bài này một mặt nhằm chống lại quan điểm sai lầm của nhóm "nghệ thuật vị nghệ thuật", nhưng mặt khác còn để tuyên truyền cho một quan điểm nghệ thuật mới trong văn nghệ:

            Lấy cán bút làm đòn xoay chế độ
            Mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền

Nhưng vẫn là bài thơ hay vì đã đạt đến một trình độ nghệ thuật nhất định. Đây là hiện tượng khá phổ biến chứ không chỉ là một vài trường hợp cá biệt. Lịch sử đã cho thấy, nhiều lãnh tụ do cuộc đời lịch lãm và từng trải trong quá trình rèn luyện để trở thành những nhà tư tưởng, nhà hoạt động cách mạng, thì đồng thời ngoài ý muốn chủ quan cũng chuẩn bị điều kiện để trở thành một nghệ sĩ lớn. Sáng tác của họ cho dù có khi chỉ hướng vào mục đích tuyên truyền, nhưng tuyên truyền đó thường đạt đến trình độ cao và "trở thành nghệ thuật". Vì vậy khuynh hướng đối lập giữa tuyên truyền và nghệ thuật tuy có dựa trên một vài căn cứ thực tế nhưng thiếu cái nhìn toàn diện và sự lý giải thoả đáng. Đúng quả có những nghệ sĩ thực sự tài năng nhưng vì lịch sử có lúc đã đặt ra trước mắt "những việc cần làm ngay" nên họ không có được khoảng thời gian ngừng nghĩ cần thiết, sự suy ngẫm, trau chuốt kỹ càng mà do đó, sáng tác có phần nặng về tuyên truyền mà nhẹ về nghệ thuật. Điều hiển nhiên mà ai cũng thừa nhận, Bác của chúng ta không những là một lãnh tụ vĩ đại mà còn là một nghệ sĩ lớn. Thế nhưng nếu ai đó gọi một số sáng tác của Bác như Ca dân cày, Ca du kích, hay Khuyên thanh niên, Gửi nông dân v.v... là những "truyền đơn bằng miệng" thì cũng không quá. Chính Bác đã có lần tâm sự: "Chắc sẽ có người cho rằng văn chương cụt quằn (...). Hơn sáu mươi năm nay đế quốc chủ nghĩa Pháp đạp lên đầu hai mươi triệu đồng bào hấp hối trong vòng tử địa. Phải kêu to làm chóng để cứu lấy giống nòi. Thời gian đâu rảnh mà vẽ với trau chuốt (...) văn chương và hy vọng cuốn sách này chỉ ở trong hai chữ cách mệnh! cách mệnh! cách mệnh!!!". Sự lý giải lịch sử này cho ta thấy, trong một số trường hợp cách mạng đã biến văn chương thành một hành vi chính trị trực tiếp, nhưng nên xem đấy là một hiện tượng cá biệt. Còn nhìn chung nghệ thuật và tuyên truyền chẳng những không đối lập mà còn thống nhất và bổ sung cho nhau để hoàn thiện bản chất và chức năng xã hội của chúng.

Vả chăng, tuyên truyền cũng như nghệ thuật xét cho cùng thì đều là những chuyện của cuộc đời được đưa ra để nói, để giãi bày trao đổi. Sự gặp gỡ tuyệt diệu ở mục đích, lý tưởng thường khi đã tạo nên cho cả hai một thái độ và khuynh hướng biểu hiện chung. Vậy nên khi thấy nội dung một tác phẩm văn nghệ sát thực với nội dung chính trị thì đừng vội cho đó là tác phẩm minh họa. Lịch sử nhiều khi đã đặt ra trước mắt người nghệ sĩ vai trò của một chiến sĩ. Nhà văn chiến đấu không vì một chỉ thị nào khác ngoài chỉ thị của trái tim với ý thức tự nguyện cao cả. Họ thấy cần thiết phải phản ánh bằng được những khát vọng cháy bỏng, những yêu cầu bức thiết trước mắt của dân tộc cũng như của giai cấp để khích lệ tinh thần cộng đồng trong đấu tranh và xây dựng một cuộc sống mới. Mục đích của tuyên truyền và nghệ thuật trong trường hợp đó đã xuyên thấm, hoà tan trong cảm hứng sáng tạo của nhà văn, đồng thời là điều kiện thuận lợi cho phép nhà văn vươn lên đạt được những thành tựu nghệ thuật đáng kể. Cứ bình tâm nhìn lại nền văn nghệ cách mạng nước ta trong quá khứ một cách khách quan và nghiêm túc, chúng ta sẽ thấy không ít tác phẩm văn chương đã kết tinh rực rỡ sự gặp gỡ kỳ diệu đó.

Một khía cạnh nữa cũng thể hiện mặt đúng trong quan niệm của đồng chí Trường Chinh là việc thừa nhận ý nghĩa tuyên truyền trong tác phẩm văn nghệ. Có thể, "nghệ thuật thiết thực tới một mức nào đó" chưa hẳn đã mang tính chất tuyên truyền; nhưng nghệ thuật có tác dụng tuyên truyền thì dứt khoát phải thiết thực. Nói rõ ra, đó phải là những tác phẩm văn nghệ thể hiện được những vấn đề cơ bản của thời đại, của dân tộc và giai cấp, phản ánh được những nguyện vọng tha thiết, những đòi hỏi bức xúc, chính đáng của quảng đại quần chúng trong từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Hiệu quả giáo dục và tác dụng cổ vũ lớn lao của nhiều tác phẩm nghệ thuật chân chính đã biến tinh thần của quần chúng trở nên một lực lượng vật chất trong nhiều cuộc cách mạng xã hội vĩ đại. Chẳng phải từ lâu, Lênin đã từng coi tác phẩm Người mẹ của Gorki là một sáng tác rất kịp thời. Và khi nhìn về quá khứ, Người cũng gọi Pôchiê "là một trong những người tuyên truyền bằng thơ ca vĩ đại nhất" đó sao. Sau này một số người do quá nhiệt tâm đấu tranh cho "tính độc lập" của văn chương nghệ thuật mà dẫn đến khuynh hướng phủ nhận toàn bộ ý nghĩa tuyên truyền này. Họ tưởng nghệ thuật linh diệu và trường cửu phải là "nghệ thuật thuần tuý"; nhưng thực ra một quan niệm như vậy đã tước đi cái bản chất và chức năng cao quý vốn đã tạo nên giá trị muôn đời của nhiều tác phẩm vĩ đại.

Tuy nhiên trên đây cũng mới đề cập đến những khía cạnh đúng đắn trong nhận định của đồng chí Trường Chinh. Còn thật ra nhận định đó chưa thể bao quát hết toàn bộ các hiện tượng khi xem xét sự chuyển hoá hai chiều giữa tuyên truyền và nghệ thuật. Cụ thể, có loại tuyên truyền cho dù đã đạt đến trình độ cao thì vẫn không thể trở thành nghệ thuật. Loại này không biểu hiện như một chức năng của văn chương nghệ thuật mà là một hành vi chính trị thuần tuý, một hoạt động có tính độc lập. Kinh nghiệm và năng khiếu nghề nghiệp có thể giúp các cán bộ hoạt động trong lĩnh vực này đạt đến trình độ tuyên truyền cao, nhưng không vì thế mà hiệu quả tuyên truyền lại trở thành nghệ thuật. Nếu nghệ thuật được dùng như một khái niệm rộng, thì trong chừng mực nào đó có thể coi đã đạt đến trình độ nghệ thuật tuyên truyền chứ không phải nghệ thuật mĩ học. Đồng chí Trường Chinh nói đúng: "Tuyên truyền chính nghĩa rất có thể đạt được trình độ nghệ thuật chân chính" (Sđd trang 114). Nhưng đó là sự thống nhất trong thế khả năng. Còn một lúc vì hiệu quả tuyên truyền mà nghệ thuật có được thì không phải là hiện tượng phổ quát cho mọi trường hợp. Mặt khác, cũng có loại "nghệ thuật thiết thực" nhưng không biểu hiện gì có tính chất rõ rệt là tuyên truyền. Một tác phẩm văn chương có giá trị thường khi chỉ đem lại cho bạn đọc sự am hiểu sâu sắc về thiên nhiên, về con người của một xứ sở, một đất nước nào đó. Một bản giao hưởng tuyệt vời làm thoả mãn sự khoái cảm nghệ thuật của thính giả có khi chỉ vì sự thể hiện tài tình của nghệ sĩ bằng âm thanh về vẻ đẹp của một buổi sáng lúc bình minh đang lên. Sự mở rộng tầm nhìn, vốn hiểu biết cũng như khả năng đáp ứng những rung động thẩm mĩ cần thiết không phải khi nào cũng có tính chất tuyên truyền dù trong ý đồ của tác giả hay trong nội dung khách quan của tác phẩm. Có ý kiến cho rằng: "Tác phẩm nghệ thuật nào mà lại không tuyên truyền cho một cái gì" (Sự lãnh đạo của Đảng và tự do sáng tác của văn nghệ sĩ - Báo Nhân Dân - 20-3-1984 - trang 2). Cố nhiên! Nhưng hiểu khái niệm tuyên truyền như vậy đã theo một hàm nghĩa rộng. Nghĩa là tuyên truyền được coi như sự biểu đạt tin tức hay phổ biến, trao đổi một nội dung thông báo nào đó. Ví như một câu tục ngữ ít ra cũng mách bảo cho người đọc biết được một vài khía cạnh nhất định về kinh nghiệm sống. Một pho tượng La Hán chùa Tây Phương cũng truyền lại cho thế hệ mai sau thấu hiểu phần nào nỗi đau của ông cha ta trước đây trong kiếp trầm luân. Hay một bản nhạc, một bức tranh cho dù chỉ là kết quả của một cảm hứng thuần tuý, nhưng khi ra đời, vẫn có giá trị như một thông điệp gởi đến mọi người một cái gì về hiện thực, về tâm sự của chính nghệ sĩ v.v... Chẳng phải đã có người thừa nhận, bằng tác phẩm và thông qua tác phẩm, nghệ sĩ mượn những sự việc của thực tại để "tuyên truyền" một cái gì với thực tại đó sao. Nhưng tuyên truyền đang nói ở đây đã giới hạn trong nội dung tác phẩm gắn liền với những vấn đề thuộc chủ trương đường lối. Nó phải thể hiện được phần nào khát vọng, khuynh hướng tư tưởng của một giai cấp hay của một tập đoàn chính trị xã hội nào đó. Trong phạm vi như vậy, tuyên truyền không phải bao giờ cũng là người bạn đường của nghệ thuật. Nghĩa là, không phải tác phẩm văn chương nghệ thuật nào cũng có tính chất tuyên truyền, kể cả tác phẩm có giá trị thiết thực đối với đời sống tinh thần của chúng ta.

Hơn nửa thế kỷ qua, nền văn nghệ nước ta do bám sát với đời sống chính trị xã hội nên đã phản ánh khá chân thật và sâu sắc những vấn đề cơ bản trong đường lối cách mạng của Đảng. Đó là nền văn nghệ cách mạng thực sự có vai trò và tác dụng lớn lao trong hai cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên nhìn lại, chúng ta thấy bên cạnh một thành tựu nghệ thuật đáng tự hào vẫn còn nhiều tác phẩm đã đánh mất những phẩm chất nghệ thuật cần thiết, mà theo cách nói thường dùng, đó là những tác phẩm minh họa vốn thực hiện chức năng tuyên truyền một cách sống sượng và khô khan. Nhưng dù thế nào đi nữa, chúng ta cũng không nên quy lỗi cho hoàn cảnh lịch sử hay mục đích tuyên truyền mà trước hết nên xem trách nhiệm thuộc về người sáng tác. Tác phẩm nghệ thuật là đứa con tinh thần, nó ra đời do kết quả của một quá trình lăn lộn, thai nghén và sinh nở bằng chính tình cảm cũng như tài năng sáng tạo của nhà văn. Dù sao thì nguyên tắc của nghệ thuật, nhất là nghệ thuật của chủ nghĩa hiện thực cũng không cho phép nhà văn dễ dãi lược quy tất cả đặc trưng của nó để phục vụ cho mục đích tuyên truyền hay khuynh hướng tư tưởng nào đó. Chính C.Mác và Ph.Ăngghen, cách đây hơn một thế kỷ trước, mặc dù rất nhiệt tâm cổ vũ và đánh giá cao những tác phẩm tuyên truyền cho khuynh hướng chính trị của giai cấp vô sản nhưng vẫn luôn luôn đòi hỏi một yêu cầu nghiêm túc trong sáng tạo nghệ thuật đối với các nhà văn hiện thực. Ph.Ăngghen từng nhấn mạnh: "bản thân khuynh hướng phát toát ra từ tình thế và hành động", và theo Người: "Các quan điểm của tác giả càng kín đáo bao nhiêu thì lại càng tốt cho tác phẩm nghệ thuật bấy nhiêu" (Về văn học và nghệ thuật - Nxb Sự thật - Hà Nội - 1997 - trang 381,385). Vậy nên, ý nghĩa tuyên truyền cho dù được coi trọng đến mấy cũng không vì thế mà xem nhẹ đặc trưng phản ánh của nghệ thuật. Nghệ thuật dứt khoát phải có tiếng nói riêng, tiếng nói toát lên từ những biến cố và hệ thống hình tượng sinh động đầy sức thuyết phục. Nếu không thấy được điều này sẽ dễ dàng đồng nhất nghệ thuật với tuyên truyền, biến nghệ thuật thành một công cụ thực dụng và coi sáng tạo nghệ thuật như một hành vi chính trị thuần tuý.

T.T.H
(176/10-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • THÁI THU LANThông thường, mỗi văn nhân nghệ sĩ đều có nỗi đau đời, nỗi đau nhân thế. Nỗi đau này băt nguồn từ tấm lòng nhân ái và ý thức trách nhiệm của người nghệ sĩ trước cuộc sống và số phận con người qua những biến động của xã hội.

  • HOÀNG QUẢNG UYÊNTôi yêu mến và quý trọng những câu thơ như là "không thơ" của chị:Câu thơ nước chảy bèo trôi/ Vẫn nghiêng về phía phận đời khổ đau. (Hương cỏ)

  • FRANÇOIS JULLIEN                                        LTS: Hạ tuần tháng tư năm 2001, nhà triết học F.Jullien đến thăm Hà Nội nhân dịp lần đầu tiên công trình của ông được giới thiệu ở Việt Nam trong văn bản tiếng Việt (Xác lập cơ sở cho đạo đức- N.x.b Đà Nẵng, 2000). Cuối năm nay sẽ được xuất bản bản dịch công trình Bàn về tính hiệu quả ( F.Jullien. Traité de l’efficacité.Grasset, 1997). Sau đây là bản dịch chương III của tác phẩm này (do khuôn khổ của tạp chí, có lược đi một số đoạn). Nhan đề do chúng tôi đặt. Trong bài, số thiên đơn thuần (chẳng hạn th.81) là số thiên trong sách Đạo Đức Kinh còn gọi là sách Lão tử.

  • NGÔ MINH Tôi quen biết với anh Tường hơn 25 năm nay ở Huế như một người bạn vong niên thân thiết. Trong máy tính của tôi còn lưu trữ bài Anh Tường ơi viết từ năm 1998, gần 3000 chữ chưa công bố. Đó là bài viết mà nhà văn Nguyễn Quang Hà, Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương lúc đó, bảo tôi viết, sau chuyến chúng tôi đi thăm anh Tường bị trọng bệnh đang nằm hôn mê ở Bệnh viện Đà Nẵng về.

  • HỒ THẾ HÀHoàng Phủ Ngọc Tường dấn thân vào nghiệp bút nghiên bằng thơ cùng những năm tháng "hát cho đồng bào tôi nghe" sục sôi nhiệt huyết đấu tranh chống thù và ước mơ hòa bình trên quê mẹ Việt yêu dấu.

  • PHẠM PHÚ PHONG"Tôi ngồi nhớ lại tất cả nỗi trầm tư dài bên cạnh mớ hài cốt khô khốc của anh Hoàng. Trước mắt tôi, tất cả cuộc sống đầy những hùng tráng và bi thương vốn đã từng tồn tại trên mảnh đất rừng này, giờ đã bị xoá sạch dấu tích trong sự câm nín của lau lách. Như thế đấy có những con đường không còn ai đi nữa, những năm tháng không còn ai biết nữa, và những con người chết không còn hắt bóng vào đâu nữa...

  • LÊ THỊ HƯỜNG1. Yêu con người Hoàng Phủ Ngọc Tường trong thơ, quý con người Hoàng Phủ trong văn, tôi đã nhiều lần trăn trở tìm một từ, một khái niệm thật chính xác để đặt tên cho phong cách Hoàng Phủ Ngọc Tường.

  • TRẦN THÙY MAICó lần anh Hoàng Phủ Ngọc Tường nói: tính chất của người quân tử là phải "văn chất bân bân". Văn là vẻ đẹp phát tiết ra bên ngoài, chất là sức mạnh tiềm tàng từ bên trong. Khi đọc lại những bài nghiên cứu về văn hóa – lịch sử của anh Tường, tôi lại nhớ đến ý nghĩ ấy. Nếu "văn" ở đây là nét tài hoa duyên dáng trong từng câu từng chữ đem lại cho người đọc sự hứng thú và rung cảm, thì "chất" chính là sức mạnh của vốn sống, vốn kiến thức rất quảng bác, làm giàu thêm rất nhiều cho sự hiểu biết của người đọc.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCXuất thân từ một gia đình hoàng tộc, cử nhân Hán học, giỏi chữ Hán, thông thạo chữ  Pháp, từng làm quan dưới thời Nam triều, nhưng Ưng Bình Thúc Giạ Thị là một nhân cách độc đáo.

  • HỮU VINH Chúng ta đã thưởng thức thơ, ca Huế, ca trù, hò, tuồng của thi ông Ưng Bình Thúc Giạ Thị, một nhà thơ lừng lẫy của miền sông Hương núi Ngự. Nhưng nói đến sự nghiệp văn chương của thi ông mà không nói đến thơ chữ Hán của thi ông là một điều thiếu sót lớn.

  • ĐỖ LAI THÚYQuang Dũng nói nhiều đến mây, đặc biệt là mây trời Sơn Tây, Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm! Mây là biểu tượng của tự do, của lãng du. Mây trắng là xứ sở của tiêu dao trường cửu. Chất mây lãng tử ở Quang Dũng, một phần do thổ ngơi xứ Đoài, phần kia do văn học lãng mạn.

  • CAO XUÂN HẠOĐọc bài Nỗi đau của tiếng Việt của Hữu Đạt (H.Đ) trong tuần báo Văn nghệ số 9 (2-3-2002), tôi kinh ngạc đến nỗi không còn hiểu tại sao lại có người thấy mình có thể ngồi viết ra một bài như thế. Tôi cố sức bới óc ra nghĩ cho ra người viết là ai, tại sao mà viết, và viết để làm gì. Rõ ràng đây không phải là một người hoàn toàn không biết gì về giới ngôn ngữ học Việt . Nhưng hầu hết những điều người ấy viết ra lại hoàn toàn ngược với sự thật.

  • MAI VĂN HOAN.Tôi biết Nguyễn Duy qua bài thơ “Tre Việt ” in trên báo Văn Nghệ. Từ đó, tôi luôn theo sát thơ anh. Mở trang báo mới thấy tên anh là tôi đọc đầu tiên. Với tôi, anh là một trong những người hiếm hoi giữ được độ bền của tài năng.

  • THỦY TRIỀU SUNG HUYỀN"Đây thôn Vĩ Dạ" là một bài thơ nổi tiếng của Hàn Mặc Tử đã từng có nhiều cách hiểu, cách tiếp cận khác nhau. Đành rằng ngôn ngữ thơ ca thường hàm súc, cô đọng, đa nghĩa do đó có thể có nhiều cách tiếp cận tác phẩm.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNMỗi loại hình nghệ thuật ngôn từ đều có phong cách riêng trong cư xử với đối tượng mà nó phản ánh. Chính vì thế, đề tài tiểu thuyết trong khi mang những tính chất chung có của mọi thể loại văn học, nó đồng thời mang những tính chất riêng chỉ có của thể loại tiểu thuyết.

  • VĂN TÂMNhà thơ Bằng Việt (tên thật Nguyễn Việt Bằng) tuổi Tỵ (1941) quê "xứ Đoài mây trắng lắm", là một trong những thi sĩ bẩm sinh của thơ ca Việt hiện đại.

  • THANH THẢOHoàng Phủ Ngọc Tường có tập thơ "Người hái phù dung". Hoa phù dung sớm nở tối tàn, vẫn là loài hoa hiện hữu trong một ngày.

  • JOSH GREENFELDNgười Nhật vốn nổi tiếng vì tính bài ngoại của họ, thể hiện qua nghệ thuật cắm hoa và trà lễ. Tuy nhiên cũng từ rất lâu rồi nhiều nhà văn Nhật Bản vẫn quyết liệt phấn đấu mong tìm kiếm một chỗ đứng đáng kể trên các kệ sách của các thư viện nước ngoài. Họ làm thế không chỉ vì có nhiều tiền hơn, danh tiếng hơn mà còn vì một điều rằng những ai có tác phẩm được dịch nhiều ở nước ngoài thì sẽ được trân trọng, chờ đón ở trong nước!

  • BỬU NAM            Kỷ niệm 200 năm ngày sinh của văn hào Victor Hugo (1802 - 2002)1. Người ta thường gọi Hugo là “con người đại dương”. Bởi sự vĩ đại của tư tưởng và sự mệnh mông của tình cảm của ông đối với nhân dân và nhân loại, bởi sự nghiệp đồ sộ của ông bao hàm mọi thể loại văn học và phi văn học; bởi sự đa dạng của những tài năng của ông in dấu ấn trong mọi lĩnh vực hơn hai thế kỷ qua trong nền văn học và văn hóa Pháp. Đến độ có nhà nghiên cứu cho rằng: Tất cả những vấn đề lớn của nhân loại đều hàm chứa trong các tác phẩm của Hugo như “tất cả được lồng vào tất cả”.

  • LẠI MAI HƯƠNGTiểu thuyết Những người khốn khổ có một số lượng nhân vật nữ rất đông đảo, nhưng mỗi nhân vật mang một sức sống riêng, một sinh lực riêng bởi nghệ thuật xây dựng các nhân vật này không hoàn toàn đồng nhất. Bài viết sẽ đi vào khảo sát một số nữ nhân vật tiêu biểu, bước đầu thử tìm hiểu thủ pháp xây dựng và cái nhìn của Hugo đối với loại nhân vật này.