Nhìn lại vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật

16:47 10/06/2009
TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

Chẳng hạn, đánh giá lại tình hình phản ánh hiện thực của văn học ở giai đoạn trước, có ý kiến đã tìm nguyên nhân từ mục đích tuyên truyền để cắt nghĩa cho sự xuất hiện những tác phẩm minh hoạ. Nhìn lại mối quan hệ giữa văn nghệ với chính trị cũng có người cho văn nghệ, do chỗ hướng tới tuyên truyền vì mục đích chính trị, nên không để lại được những tác phẩm lớn có giá trị lâu dài. Ngay cả trong những bài viết, những cuộc hội thảo về chức năng của văn học, về phương pháp sáng tác.v.v... thì vấn đề này vẫn thảng hoặc được nói đến.

Xét ra, vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật đã chi phối bản thân nghệ thuật không ít. Ảnh hưởng của nó đã lan toả trên nhiều bình diện, từ quan niệm lý thuyết đến thực tiễn sáng tác, từ chủ thể sáng tạo đến khách thể tiếp nhận tác phẩm. Và xuyên suốt trong chiều dài lịch sử kể từ ý kiến của đồng chí Trường Chinh chính thức phát biểu tại Hội nghị văn hoá toàn quốc lần thứ hai (1948) đến nay vẫn còn mở ra nhiều khuynh hướng đánh giá khác nhau, thậm chí đối lập nhau khi vận dụng quan điểm này để lý giải tình hình văn học đã qua.

Muốn có được một cách nhìn thoả đáng, ít ra trên phương diện lý thuyết, rõ ràng vấn đề tuyên truyền trong tác phẩm nghệ thuật cần được triển khai xem xét trong tương quan của sự phát triển giữa lý luận và thực tiễn sáng tác, đặc biệt phải chú ý gắn nó với yêu cầu chính trị qua từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Riêng ở đây, chúng tôi muốn trở lại với ý kiến ban đầu của đồng chí Trường Chinh phát biểu từ hội nghị nêu trên để đề xuất một số khía cạnh cần được khẳng định và đổi mới trong tư duy lý luận hiện nay khi đề cập đến vấn đề này trong tác phẩm văn nghệ.

Đánh giá và tổng kết các đợt tranh luận đầu những năm 40 của thế kỷ XX về các quan điểm khác nhau xung quanh vấn đề tuyên truyền và nghệ thuật, đồng chí Trường Chinh đã nêu lên một kết luận có tính khái quát: "Tuyên truyền cao tới một mức nào đó thì tuyên truyền trở thành nghệ thuật. Nghệ thuật thiết thực tới một mức nào đó thì nghệ thuật có tính chất rõ rệt là tuyên truyền" (Về văn hoá và nghệ thuật - T1 - Nxb Văn học - Hà Nội - 1985 - trang 113). Kết luận này chỉ ra mối quan hệ có tính nhân quả giữa tuyên truyền và nghệ thuật với điều kiện khi cả hai đều đạt đến độ giá trị của nó - tuyên truyền phải cao, nghệ thuật phải thiết thực. Vậy xem sự chuyển hoá này có diễn ra như một tất yếu hay không. Nói cách khác, mỗi khi tuyên truyền và nghệ thuật đã đạt được yêu cầu nêu trên thì có phải bao giờ mỗi loại như vậy cũng bao hàm trong nó phẩm chất hay đặc tính của loại kia hay không? Điều đó, chỉ có thể trên cơ sở phân tích về thực tiễn văn học đã qua may ra mới có thể khẳng định được.

Trước hết, nên hiểu tuyên truyền là khái niệm chỉ gắn liền với những vấn đề chính trị cụ thể: "nói tuyên truyền tức là nói chính trị". Quan hệ giữa nghệ thuật và tuyên truyền nếu không xem là hoàn toàn thì cũng một phần biểu hiện mối quan hệ giữa văn nghệ và chính trị. Vậy nên dễ nhận thấy, mỗi khi hoàn cảnh xã hội cho phép xem xét lại mối quan hệ này thì lập tức, vấn đề nghệ thuật và tuyên truyền cũng được đưa ra thẩm định, đánh giá. Thậm chí, đó còn là điểm nóng của nhiều cuộc tranh luận khá sôi nổi. Chứng cứ là tình hình của đời sống văn học nước ta đã diễn ra những năm 40, tiếp theo vào những năm 1957, 1958; và đặc biệt là từ khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Với ý nghĩa đó, quan niệm trên của đồng chí Trường Chinh đã phản ánh đúng nét nổi bật của một bộ phận văn chương vốn ra đời trong những điều kiện lịch sử nhất định. Chẳng hạn, thơ văn của các lãnh tụ cách mạng như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh trước đây cũng như của Hồ Chí Minh và của một số đồng chí lãnh đạo Đảng ta sau này là những ví dụ tiêu biểu. Điểm giống nhau của hai cụ Phan và Hồ Chí Minh là chưa bao giờ tự nhận mình là nhà văn, nhà thơ và trong tư tưởng không hề có ý lập thân bằng sự nghiệp văn chương. Với các vị, văn chương chỉ là một bộ phận nhỏ trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng, là một phương tiện tuyên truyền cổ động có hiệu lực trên mặt trận kháng chiến, kiến quốc. Ấy vậy, một số sáng tác của Phan Bội Châu trước cách mạng nhằm mục đích tuyên truyền vốn có sức mạnh thôi thúc cả một thế hệ độc giả lên đường tranh đấu thì "giờ đây, còn nhiều người vẫn đọc thuộc lòng và ngâm nga nhiều đoạn văn, nhiều bài thơ (...) một cách khoái trá" (Đặng Thai Mai - Thơ văn Phan Bội Châu - Nxb Văn hoá - 1960 - trang 84). Còn thơ văn Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, chỉ kể riêng phần truyện được Người viết để tuyên truyền cho mục đích chính trị thì rất đúng như Phạm Huy Thông nói: "Chính vì nhằm đạt kết quả thiết thực nhất cho nên rất sinh động, sôi nổi tình cảm, ước mơ, do đó lại rất văn nghệ". (Mấy lời nói đầu Truyện và Ký của Nguyễn Ái Quốc - Nxb Văn học - 1974 - trang 17). Nhà thơ Sóng Hồng - bút danh của đồng chí Trường Chinh cũng đã có lần tâm sự với bạn đọc: "Những bài thơ tôi làm cốt để phục vụ cho tuyên truyền cách mạng". Đúng vậy! Là thi sĩ cũng là bài thơ thuộc loại những tác phẩm nêu trên. Tác giả viết bài này một mặt nhằm chống lại quan điểm sai lầm của nhóm "nghệ thuật vị nghệ thuật", nhưng mặt khác còn để tuyên truyền cho một quan điểm nghệ thuật mới trong văn nghệ:

            Lấy cán bút làm đòn xoay chế độ
            Mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền

Nhưng vẫn là bài thơ hay vì đã đạt đến một trình độ nghệ thuật nhất định. Đây là hiện tượng khá phổ biến chứ không chỉ là một vài trường hợp cá biệt. Lịch sử đã cho thấy, nhiều lãnh tụ do cuộc đời lịch lãm và từng trải trong quá trình rèn luyện để trở thành những nhà tư tưởng, nhà hoạt động cách mạng, thì đồng thời ngoài ý muốn chủ quan cũng chuẩn bị điều kiện để trở thành một nghệ sĩ lớn. Sáng tác của họ cho dù có khi chỉ hướng vào mục đích tuyên truyền, nhưng tuyên truyền đó thường đạt đến trình độ cao và "trở thành nghệ thuật". Vì vậy khuynh hướng đối lập giữa tuyên truyền và nghệ thuật tuy có dựa trên một vài căn cứ thực tế nhưng thiếu cái nhìn toàn diện và sự lý giải thoả đáng. Đúng quả có những nghệ sĩ thực sự tài năng nhưng vì lịch sử có lúc đã đặt ra trước mắt "những việc cần làm ngay" nên họ không có được khoảng thời gian ngừng nghĩ cần thiết, sự suy ngẫm, trau chuốt kỹ càng mà do đó, sáng tác có phần nặng về tuyên truyền mà nhẹ về nghệ thuật. Điều hiển nhiên mà ai cũng thừa nhận, Bác của chúng ta không những là một lãnh tụ vĩ đại mà còn là một nghệ sĩ lớn. Thế nhưng nếu ai đó gọi một số sáng tác của Bác như Ca dân cày, Ca du kích, hay Khuyên thanh niên, Gửi nông dân v.v... là những "truyền đơn bằng miệng" thì cũng không quá. Chính Bác đã có lần tâm sự: "Chắc sẽ có người cho rằng văn chương cụt quằn (...). Hơn sáu mươi năm nay đế quốc chủ nghĩa Pháp đạp lên đầu hai mươi triệu đồng bào hấp hối trong vòng tử địa. Phải kêu to làm chóng để cứu lấy giống nòi. Thời gian đâu rảnh mà vẽ với trau chuốt (...) văn chương và hy vọng cuốn sách này chỉ ở trong hai chữ cách mệnh! cách mệnh! cách mệnh!!!". Sự lý giải lịch sử này cho ta thấy, trong một số trường hợp cách mạng đã biến văn chương thành một hành vi chính trị trực tiếp, nhưng nên xem đấy là một hiện tượng cá biệt. Còn nhìn chung nghệ thuật và tuyên truyền chẳng những không đối lập mà còn thống nhất và bổ sung cho nhau để hoàn thiện bản chất và chức năng xã hội của chúng.

Vả chăng, tuyên truyền cũng như nghệ thuật xét cho cùng thì đều là những chuyện của cuộc đời được đưa ra để nói, để giãi bày trao đổi. Sự gặp gỡ tuyệt diệu ở mục đích, lý tưởng thường khi đã tạo nên cho cả hai một thái độ và khuynh hướng biểu hiện chung. Vậy nên khi thấy nội dung một tác phẩm văn nghệ sát thực với nội dung chính trị thì đừng vội cho đó là tác phẩm minh họa. Lịch sử nhiều khi đã đặt ra trước mắt người nghệ sĩ vai trò của một chiến sĩ. Nhà văn chiến đấu không vì một chỉ thị nào khác ngoài chỉ thị của trái tim với ý thức tự nguyện cao cả. Họ thấy cần thiết phải phản ánh bằng được những khát vọng cháy bỏng, những yêu cầu bức thiết trước mắt của dân tộc cũng như của giai cấp để khích lệ tinh thần cộng đồng trong đấu tranh và xây dựng một cuộc sống mới. Mục đích của tuyên truyền và nghệ thuật trong trường hợp đó đã xuyên thấm, hoà tan trong cảm hứng sáng tạo của nhà văn, đồng thời là điều kiện thuận lợi cho phép nhà văn vươn lên đạt được những thành tựu nghệ thuật đáng kể. Cứ bình tâm nhìn lại nền văn nghệ cách mạng nước ta trong quá khứ một cách khách quan và nghiêm túc, chúng ta sẽ thấy không ít tác phẩm văn chương đã kết tinh rực rỡ sự gặp gỡ kỳ diệu đó.

Một khía cạnh nữa cũng thể hiện mặt đúng trong quan niệm của đồng chí Trường Chinh là việc thừa nhận ý nghĩa tuyên truyền trong tác phẩm văn nghệ. Có thể, "nghệ thuật thiết thực tới một mức nào đó" chưa hẳn đã mang tính chất tuyên truyền; nhưng nghệ thuật có tác dụng tuyên truyền thì dứt khoát phải thiết thực. Nói rõ ra, đó phải là những tác phẩm văn nghệ thể hiện được những vấn đề cơ bản của thời đại, của dân tộc và giai cấp, phản ánh được những nguyện vọng tha thiết, những đòi hỏi bức xúc, chính đáng của quảng đại quần chúng trong từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Hiệu quả giáo dục và tác dụng cổ vũ lớn lao của nhiều tác phẩm nghệ thuật chân chính đã biến tinh thần của quần chúng trở nên một lực lượng vật chất trong nhiều cuộc cách mạng xã hội vĩ đại. Chẳng phải từ lâu, Lênin đã từng coi tác phẩm Người mẹ của Gorki là một sáng tác rất kịp thời. Và khi nhìn về quá khứ, Người cũng gọi Pôchiê "là một trong những người tuyên truyền bằng thơ ca vĩ đại nhất" đó sao. Sau này một số người do quá nhiệt tâm đấu tranh cho "tính độc lập" của văn chương nghệ thuật mà dẫn đến khuynh hướng phủ nhận toàn bộ ý nghĩa tuyên truyền này. Họ tưởng nghệ thuật linh diệu và trường cửu phải là "nghệ thuật thuần tuý"; nhưng thực ra một quan niệm như vậy đã tước đi cái bản chất và chức năng cao quý vốn đã tạo nên giá trị muôn đời của nhiều tác phẩm vĩ đại.

Tuy nhiên trên đây cũng mới đề cập đến những khía cạnh đúng đắn trong nhận định của đồng chí Trường Chinh. Còn thật ra nhận định đó chưa thể bao quát hết toàn bộ các hiện tượng khi xem xét sự chuyển hoá hai chiều giữa tuyên truyền và nghệ thuật. Cụ thể, có loại tuyên truyền cho dù đã đạt đến trình độ cao thì vẫn không thể trở thành nghệ thuật. Loại này không biểu hiện như một chức năng của văn chương nghệ thuật mà là một hành vi chính trị thuần tuý, một hoạt động có tính độc lập. Kinh nghiệm và năng khiếu nghề nghiệp có thể giúp các cán bộ hoạt động trong lĩnh vực này đạt đến trình độ tuyên truyền cao, nhưng không vì thế mà hiệu quả tuyên truyền lại trở thành nghệ thuật. Nếu nghệ thuật được dùng như một khái niệm rộng, thì trong chừng mực nào đó có thể coi đã đạt đến trình độ nghệ thuật tuyên truyền chứ không phải nghệ thuật mĩ học. Đồng chí Trường Chinh nói đúng: "Tuyên truyền chính nghĩa rất có thể đạt được trình độ nghệ thuật chân chính" (Sđd trang 114). Nhưng đó là sự thống nhất trong thế khả năng. Còn một lúc vì hiệu quả tuyên truyền mà nghệ thuật có được thì không phải là hiện tượng phổ quát cho mọi trường hợp. Mặt khác, cũng có loại "nghệ thuật thiết thực" nhưng không biểu hiện gì có tính chất rõ rệt là tuyên truyền. Một tác phẩm văn chương có giá trị thường khi chỉ đem lại cho bạn đọc sự am hiểu sâu sắc về thiên nhiên, về con người của một xứ sở, một đất nước nào đó. Một bản giao hưởng tuyệt vời làm thoả mãn sự khoái cảm nghệ thuật của thính giả có khi chỉ vì sự thể hiện tài tình của nghệ sĩ bằng âm thanh về vẻ đẹp của một buổi sáng lúc bình minh đang lên. Sự mở rộng tầm nhìn, vốn hiểu biết cũng như khả năng đáp ứng những rung động thẩm mĩ cần thiết không phải khi nào cũng có tính chất tuyên truyền dù trong ý đồ của tác giả hay trong nội dung khách quan của tác phẩm. Có ý kiến cho rằng: "Tác phẩm nghệ thuật nào mà lại không tuyên truyền cho một cái gì" (Sự lãnh đạo của Đảng và tự do sáng tác của văn nghệ sĩ - Báo Nhân Dân - 20-3-1984 - trang 2). Cố nhiên! Nhưng hiểu khái niệm tuyên truyền như vậy đã theo một hàm nghĩa rộng. Nghĩa là tuyên truyền được coi như sự biểu đạt tin tức hay phổ biến, trao đổi một nội dung thông báo nào đó. Ví như một câu tục ngữ ít ra cũng mách bảo cho người đọc biết được một vài khía cạnh nhất định về kinh nghiệm sống. Một pho tượng La Hán chùa Tây Phương cũng truyền lại cho thế hệ mai sau thấu hiểu phần nào nỗi đau của ông cha ta trước đây trong kiếp trầm luân. Hay một bản nhạc, một bức tranh cho dù chỉ là kết quả của một cảm hứng thuần tuý, nhưng khi ra đời, vẫn có giá trị như một thông điệp gởi đến mọi người một cái gì về hiện thực, về tâm sự của chính nghệ sĩ v.v... Chẳng phải đã có người thừa nhận, bằng tác phẩm và thông qua tác phẩm, nghệ sĩ mượn những sự việc của thực tại để "tuyên truyền" một cái gì với thực tại đó sao. Nhưng tuyên truyền đang nói ở đây đã giới hạn trong nội dung tác phẩm gắn liền với những vấn đề thuộc chủ trương đường lối. Nó phải thể hiện được phần nào khát vọng, khuynh hướng tư tưởng của một giai cấp hay của một tập đoàn chính trị xã hội nào đó. Trong phạm vi như vậy, tuyên truyền không phải bao giờ cũng là người bạn đường của nghệ thuật. Nghĩa là, không phải tác phẩm văn chương nghệ thuật nào cũng có tính chất tuyên truyền, kể cả tác phẩm có giá trị thiết thực đối với đời sống tinh thần của chúng ta.

Hơn nửa thế kỷ qua, nền văn nghệ nước ta do bám sát với đời sống chính trị xã hội nên đã phản ánh khá chân thật và sâu sắc những vấn đề cơ bản trong đường lối cách mạng của Đảng. Đó là nền văn nghệ cách mạng thực sự có vai trò và tác dụng lớn lao trong hai cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên nhìn lại, chúng ta thấy bên cạnh một thành tựu nghệ thuật đáng tự hào vẫn còn nhiều tác phẩm đã đánh mất những phẩm chất nghệ thuật cần thiết, mà theo cách nói thường dùng, đó là những tác phẩm minh họa vốn thực hiện chức năng tuyên truyền một cách sống sượng và khô khan. Nhưng dù thế nào đi nữa, chúng ta cũng không nên quy lỗi cho hoàn cảnh lịch sử hay mục đích tuyên truyền mà trước hết nên xem trách nhiệm thuộc về người sáng tác. Tác phẩm nghệ thuật là đứa con tinh thần, nó ra đời do kết quả của một quá trình lăn lộn, thai nghén và sinh nở bằng chính tình cảm cũng như tài năng sáng tạo của nhà văn. Dù sao thì nguyên tắc của nghệ thuật, nhất là nghệ thuật của chủ nghĩa hiện thực cũng không cho phép nhà văn dễ dãi lược quy tất cả đặc trưng của nó để phục vụ cho mục đích tuyên truyền hay khuynh hướng tư tưởng nào đó. Chính C.Mác và Ph.Ăngghen, cách đây hơn một thế kỷ trước, mặc dù rất nhiệt tâm cổ vũ và đánh giá cao những tác phẩm tuyên truyền cho khuynh hướng chính trị của giai cấp vô sản nhưng vẫn luôn luôn đòi hỏi một yêu cầu nghiêm túc trong sáng tạo nghệ thuật đối với các nhà văn hiện thực. Ph.Ăngghen từng nhấn mạnh: "bản thân khuynh hướng phát toát ra từ tình thế và hành động", và theo Người: "Các quan điểm của tác giả càng kín đáo bao nhiêu thì lại càng tốt cho tác phẩm nghệ thuật bấy nhiêu" (Về văn học và nghệ thuật - Nxb Sự thật - Hà Nội - 1997 - trang 381,385). Vậy nên, ý nghĩa tuyên truyền cho dù được coi trọng đến mấy cũng không vì thế mà xem nhẹ đặc trưng phản ánh của nghệ thuật. Nghệ thuật dứt khoát phải có tiếng nói riêng, tiếng nói toát lên từ những biến cố và hệ thống hình tượng sinh động đầy sức thuyết phục. Nếu không thấy được điều này sẽ dễ dàng đồng nhất nghệ thuật với tuyên truyền, biến nghệ thuật thành một công cụ thực dụng và coi sáng tạo nghệ thuật như một hành vi chính trị thuần tuý.

T.T.H
(176/10-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGÔ THỜI ĐÔN        (Phiếm luận)Đọc Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du, đến đoạn kết thúc phiên tòa báo ân, báo oán, người hay trắc ẩn thì thấy nhẹ nhõm, người cả nghĩ thì thấy vợ chồng Thúc Sinh- Hoạn Thư thoát nạn mà thán phục sự tế nhị của Nguyễn Du.

  • TRẦN ĐÌNH SỬTrong sách Phê bình văn học thế kỷ XX tác giả Giăng Ivơ Tađiê có nói tới ba bộ phận phê bình. Phê bình văn học ta hiện nay chủ yếu cũng có ba bộ phận ấy họp thành: phê bình báo chí, phê bình của các nhà văn nhà thơ và phê bình của các nhà phê bình chuyên nghiệp.

  • ĐÀO THÁI TÔNTrong bài Mê tín dị đoan trên chuyên mục Tiếng nói nhà văn (Văn Nghệ số 52 (2032), ngày 26 - 12 - 1988), nhà văn Thạch Quỳ thấy cần phải "phân định cho được văn hóa tâm linh, văn hóa nhân bản, văn hóa tín ngưỡng để phân biệt nó với mê tín dị đoan".

  • NGUYỄN THỊ XUÂN YẾNLà một nội dung mở, tín hiệu thẩm mỹ (THTM) đã và đang được nhiều nhà nghiên cứu khoa học quan tâm, đặc biệt là các nhà nghiên cứu văn học đã bàn luận khá rộng.

  • ĐẶNG VIỆT BÍCHTrong mười hai con giáp, từ lâu, người ta đã nhận thấy chỉ có mười một con là động vật có thật, được nuôi trong gia đình, là gia cầm (như gà - dậu), là gia súc (trâu - ngưu) hoặc động vật hoang dã (như hổ - dần)... Còn con Rồng - Thìn thì hoàn toàn là động vật thần thoại.

  • Vừa qua tại Hà Nội đã diễn ra Hội nghị Dịch thuật Giới thiệu Văn học Việt Nam ra thế giới, quy tụ trên một trăm dịch giả trong và ngoài nước đến từ hàng chục quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau như Pháp, Mỹ, Đông Âu, Trung Quốc... Đây được xem là bước khởi đầu cho việc quảng bá tốt nhất văn học Việt ra thế giới.

  • NGUYỄN THANH HÙNGTiếp nhận văn học thực sự diễn ra dưới ảnh hưởng của đặc điểm cuộc sống trong cộng đồng lý giải tác phẩm. Có được ý nghĩa phong phú của văn bản nghệ thuật là nhờ sự tiếp nhận của các thành viên độc giả tạo ra. Chính những ý nghĩa ấy chứ không phải bản thân văn bản, thậm chí không phải cả dụng ý của tác giả là điểm khởi đầu cho "chiều dài thương lượng" về giá trị của tác phẩm văn học trong lịch sử.

  • HỮU ĐẠTKhi giảng dạy thơ ca của bất cứ nhà thơ nào, ngoài những bài được đưa vào sách giáo khoa việc giới thiệu thêm những bài thơ khác trong sự nghiệp sáng tác của tác giả là rất cần thiết. Tuy nhiên, khi giới thiệu cần có những cách phân tích và đánh giá đúng đắn mới phát huy được việc mở rộng kiến thức cho học trò. Nếu không sẽ gây ra những tác dụng ngược lại.

  • HOÀNG TẤT THẮNG         (Vì sự trong sáng tiếng Việt)

  • ĐẶNG MẬU TỰU- PHAN THANH BÌNH5 năm hoạt động mỹ thuật sôi nổi, đầy trăn trở và suy nghĩ đã trôi qua, Phân- Chi hội mỹ thuật Thừa Thiên Huế đã có nhiều cơ hội để nhìn lại đánh giá những gì mà mình đã làm được.

  • VŨ ĐỨC PHÚCChữ Hán trong hàng chục thế kỷ là chữ dùng chính thức của quốc gia Việt . Trong các thế kỷ ấy văn thơ chữ Hán khi thì là văn thơ duy nhất, khi thì là bộ phận chủ yếu hoặc quan trọng, không thể thiếu, của lịch sử văn học Việt bên cạnh văn thơ chữ Nôm.

  • PHẠM QUANG TRUNGHội Nhà văn Việt Nam, bên cạnh tính chính trị- xã hội, trước hết là một tổ chức nghề nghiệp. Muốn có sức mạnh, cơ cấu và hoạt động của Hội phải tương thích với đặc thù nghề viết văn.

  • NGUYỄN VĂN HOASuốt những năm phổ thông, do phải kiểm tra hoặc phải thi cử nên bắt buộc tôi phải thuộc các bài thơ có vần trong sách giáo khoa. Trên ba mươi năm rồi tôi vẫn thuộc những bài thơ đó. Mặt khác thời tôi học phổ thông ở vùng Kinh Bắc hiệu sách có rất ít sách thơ bán và lúc đó cũng không có tiền để mua. Nguồn duy nhất là sách giáo khoa.

  • VÕ TẤN CƯỜNGLịch sử văn minh của nhân loại đã trải qua những phát kiến, khám phá vĩ đại về khoa học kỹ thuật và vũ trụ nhưng sự bí ẩn của tâm linh con người thì vẫn luôn là thách thức chưa thể giải mã.

  • Mối quan hệ của Chủ nghĩa Siêu thực với hội họa vẫn là một câu hỏi chưa được sáng tỏ, vấn đề khó khăn này đã được các nhà lịch sử mỹ thuật hé mở hơn khi chú ý ở khía cạnh hình tượng xảy ra trong các giấc mơ và coi đó là một hành vi đặc biệt của “phong cách” nghệ thuật hiện đại.

  • Cách đây vài hôm, tôi nói chuyện với một vị nữ tiến sỹ ở Viện nghiên cứu văn hoá nghệ thuật. Bà là một trưởng phòng nghiên cứu có thâm niên, rất thông thái về văn hoá. Trong lúc vui chuyện tôi nói rằng mình có ý định tìm hiểu về mối quan hệ giữa văn hoá và ngôn ngữ. Bà bảo không thể đặt vấn đề như vậy, vì ngôn ngữ là một thành tố của văn hoá.

  • TRẦN HUYỀN SÂMVăn học là dòng sông chở đầy dư vị của cuộc đời, mà văn hóa là một trong những yếu tố kết tinh nên hương sắc ấy.

  • LÊ ĐẠTTình không lời xông đất để sang xuânTrước hết xin giải quyết cho xong một vấn đề đã được giải quyết từ rất lâu tại các nhà nước văn hóa phát triển.

  • HỮU ĐẠTMột trong những đặc điểm dễ nhận thấy về phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều chính là tính sáng tạo qua việc dùng từ. Có thể bàn đến nhiều trường hợp khác nhau, trong đó chữ Xuân là một ví dụ khá điển hình.