NGÔ MINH
Nhà văn Nhất Lâm (tên thật là Đoàn Việt Lâm) hơn tôi một giáp sống, nhưng anh với tôi là hai người bạn vong niên tri kỷ.
Anh đã rời cõi tạm lúc 5 giờ sáng ngày 30/8/2016. Sáng đó, tôi nghe anh Linh, Giám đốc Công ty In và Quảng cáo Tân Phát, một người hay in sách Nhất Lâm, điện cho tôi tin đau đớn đó. Tôi bị hững hụt bàng hoàng. Mới chiều hôm trước, tôi điện mời anh trưa mai lên nhà giỗ Mạ tôi, vì cuộc giỗ này mười mấy năm nay đều có anh. Anh bảo: “Mình đau lắm. Có lẽ không đi được đâu. Thông cảm nha”. Anh đau tim từ năm 2010, lúc nào anh cũng áp tay phải lên ngực vì bệnh tim hành hạ. Năm 2010, Bệnh viện Trung ương Huế đã lên lịch mổ tim cho anh. Thấy Gạc khuyên: “Mổ tim nguy lắm. Anh mổ là chết. Chịu khó uống thuốc thì có thể sống thêm vài ba năm!” Thế là anh không mổ, tìm mua thuốc uống. Thế mà sống thêm được 6 năm! Vợ anh bảo: “Chiều anh vẫn viết. 4 giờ sáng dậy kêu đau, bảo đưa đi viện”. Taxi đưa lên viện thì tay chân anh đã lạnh rồi. 5 giờ sáng, trái tim tổn thương ấy đã ngừng đập!
Vì nhà văn Nhất Lâm đã hiến xác cho Bệnh viện, nên Linh hỏi tôi: “Anh Lâm hiến xác rồi. Anh Ngô Minh hỏi coi mình có thể vào bệnh viện thắp nhang viếng được không?” Tôi điện hỏi nhà văn - bác sĩ Phạm Nguyên Tường ở Khoa Ung Bướu. Tường “ôi” lên một tiếng rồi bảo tôi: “Tin anh Nhất Lâm mất em mới nghe lần đầu. Sửng sốt quá! Em sẽ hỏi thủ tục, sẽ gọi lại anh sau”. Sau đó thì bác sĩ Tường cho biết gia đình đã bàn với bệnh viện không đồng ý hiến xác nữa. Hai bên cũng đã thỏa thuận làm tang lễ bình thường…”.
Nhất Lâm là một nhà văn trung thực, thẳng thắn, sống quyết liệt, viết quyết liệt. Từ khi nghỉ hưu đến khi rời cõi tạm, trong 25 năm anh đã viết và ấn hành 20 cuốn sách (11 cuốn văn xuôi, 6 tập thơ, trong đó có tiểu thuyết Xa Hà Nội được giải thưởng của Quỹ Phùng Quán năm 2012 và 2 tiểu thuyết khác được giải thưởng của Hội VHNT Thừa Thiên Huế và Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế) và hàng ngàn bài báo. Cuốn cuối cùng của anh là tự truyện SỐNG ĐỂ CHẾT dày 300 trang (Nxb. Thuận Hóa, 2016) là những trang kể lại cuộc đời mình rất sống động. Đọc sách, mới hay anh không phải Sống để chết mà là Sống để tận hiến! Những ngày cuối đời, trong túi áo anh luôn có 3 cái thẻ: thẻ hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, thẻ hiến xác và cái chứng minh thư kỳ lạ. Cái chứng minh nhân dân (CMND) của Nhất Lâm 90 triệu người Việt Nam không ai có: sinh ngày 32/13/1936; nghĩa là ngày không có, tháng không có trong lịch thời gian. Nhưng cái CMND là có thật, anh vẫn sử dụng. Về cái CMND lạ lùng, anh viết: “Thực sự ngày sinh của tôi là 04/12/1936 chứ không phải 32/13/1936. Nguyên do là vào hồi năm 1979 khi tôi còn hoạt động tại vùng biên giới phía Bắc, lúc đó, để đảm bảo bí mật quốc gia, chúng tôi được cấp một CMND riêng. CMND này có tác dụng là nếu chúng tôi bị bắt hoặc bị phát hiện thì (giấy tờ tùy thân) cũng không có hiệu lực pháp lý vì cái sự sai sót cố ý đó. Cái sai đó trở nên hợp lý là vì vậy.
Tự truyện Sống để chết, anh kể về gia đình, làng xóm và tuổi thơ của mình ở làng An Tiêm, Triệu Thành, Triệu Phong, Quảng Trị cho đến khi ra Bắc, đi làm cán bộ địa chất, rồi giải phóng miền Nam trở về gặp mạ. Gia đình anh làm nông, nhưng khá giả, có thể nói là giàu có. Thời chống Pháp đã đóng góp rất nhiều vàng, lúa gạo để nuôi kháng chiến. Một gia đình có truyền thống học hành và yêu nước. Hầu như toàn bộ ông bà, chú bác, cha mẹ, cô dì… đều tham gia kháng chiến. Cả nhà có 3 liệt sĩ và hàng chục người đi cách mạng. Ông nội từng là chánh tổng, tri huyện bị bãi chức vì yêu nước. Bác ruột là Đoàn Lân, là một trong 7 người cộng sản đầu tiên của tỉnh Quảng Trị. Ông bị Pháp bắt năm 1929, bị đi đày ở nhà tù Lao Bảo và chết ở đây. Vợ bác Đoàn Lân là bà Lê Thị Trúc, trong tổ chức làm kinh tế cho Đảng với bà Hoàng Thị Ái (Chủ tịch Hội Phụ nữ Việt Nam đầu tiên). Bố nhà văn Nhất Lâm là ông Đoàn Cầu, một nông dân làm ăn giỏi, đóng góp nhiều tiền bạc và sức lực cho cách mạng. Ông là Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã Phong La. Sau đó lên chiến khu Ba Lòng, và hy sinh trong trận càn của Pháp năm 1952. Mẹ anh tên là Nguyễn Thị Tâm cũng là một phụ nữ có nhiều cống hiến. Bà làm lụng chăm chỉ, cần lao để nuôi chồng con đi kháng chiến, góp tiền, góp lương thực cho cách mạng. Điều may mắn nhất là mẹ sinh ra 5 người con, 3 trai 2 gái, Đoàn Việt Lâm là đầu. Qua hai cuộc kháng chiến cho đến sau năm 1975, 5 người con của mẹ đều từ miền Bắc trở về gặp mẹ trong nỗi vui mừng khôn xiết. Mẹ sống cho đến năm 2002, 90 tuổi.
Đoàn Việt Lâm lúc 15 tuổi, học xong tiểu học Pháp (Primaire) là lên chiến khu Ba Lòng theo bộ đội. Đọc sách, tôi thấy anh có trí nhớ tuyệt vời. Tên đất, tên sông, tên suối, thậm chí tên người, tên những bản làng xa vắng tận Tây Bắc… anh đều nhớ hết. Rồi chuyện đi mót sắn, chuyện ăn đói, mặc rách, chuyện cọp vồ người, chuyện suýt bị lính Pháp bắn chết... Đã 67 năm rồi mà Nhất Lâm thuộc từng ngóc ngách chiến khu Ba Lòng. Ở chiến khu Ba Lòng thuở ấy, Nhất Lâm đã được nghe nghệ sĩ Tân Nhân hát, gặp nhạc sĩ Phạm Duy và những nhà văn nhà thơ trong nhóm văn nghệ Nguồn Hàn như Vĩnh Mai, Lương An, Hồng Chương, Dương Tường… Có lẽ những gặp gỡ đó đã nhen lên và nuôi trong anh ngọn lửa văn chương thơ phú.
Năm 1954, anh tập kết ra Bắc, học ở Trường Cấp 3 Phan Đình Phùng (Đức Thọ, Hà Tĩnh). Sau đó Nhất Lâm ra Hà Nội học ngành địa chất. Ra trường, anh thành cán bộ địa chất đi tìm tài nguyên cho đất nước khắp vùng Tây Bắc, Đông Bắc, Quảng Ninh, Yên Tử... Đi tìm quặng phải leo đèo lội suốt rất cực nhọc và nguy hiểm, nhưng cũng có những giờ phút vô cùng lãng mạn. Đó là một tình yêu chớp nhoáng với cô gái Thái trắng Bản Lu, Yên Châu tên là Ín. Nàng đẹp. “Cái đẹp của người phụ nữ gọn gàng trong cái áo khít khao để bộ ngực tròn vo sức sống”, “Tôi nhìn nàng. Đôi má hồng lên như chị gà mái đang yêu… Rồi nàng cầm tay tôi tự nhiên kéo xuống cái nệm dày…”. Cuốn tự truyện Sống để chết kết thúc ở chuyến hồi quê ở Am Tiêm của 3 anh em trai từ Hà Nội về sau năm 1975. “Tôi chỉ kêu lên: Mẹ ơi. Mẹ cười nước mắt dàn dụa”. Rồi nhập tỉnh Bình Trị Thiên. Anh chuyển công tác sang giao thông. Làm Chánh Thanh tra Sở Giao thông vận tải Bình Trị Thiên (cũ). Do hoàn cảnh riêng, anh đã xin nghỉ hưu sớm, và bắt đầu viết văn, làm thơ từ đó.
Ở Huế, Quảng Trị, Đồng Hới… nhà văn Nhất Lâm đi đâu ai cũng nhận ra bởi anh thường đi xe đạp, đầu trần với mái tóc bạc trắng chấm vai rất đẹp. Mái tóc bạch kim óng ánh để trần trong nắng mưa của anh cứ bồng bềnh trong gió như một “thương hiệu”. Tiểu thuyết Đồi không tên viết về cuộc chiến đấu của các chiến sĩ bộ đội, du kích vùng cao A Lưới với Mỹ trên Đồi thịt băm - theo cách gọi của lính Mỹ. Anh cho biết để có tiền in sách anh phải vay mượn bạn bè hơn chục triệu đồng. Không biết có thu lại đủ vốn không. Nhưng nhìn cuốn sách dậy mùi mực thơm tôi nghĩ đến mùi sự sống nồng nàn đang phục sinh trên mảnh đất A Lưới khốc liệt một thời. Chỉ riêng viết sách dựng lại cuộc chiến đấu sau 30 năm trời, chứng tỏ tình yêu và trách nhiệm của một người cầm bút thật mãnh liệt.
Nhất Lâm viết báo, làm thơ, viết truyện ngắn, truyện ký sôi sục, tâm huyết. Dường như mấy chục năm làm cán bộ địa chất, làm thanh tra ngành giao thông mẫn cán, nghĩa là làm công việc của một người công chức, anh vẫn chưa coi là làm. Về hưu, anh hì hục viết báo để nuôi mẹ già ở quê và nuôi văn, nuôi thơ và nuôi hồn mình. Anh viết ngày viết đêm như chạy thi với tuổi. Anh trầm ngâm: “Còn sống là còn viết, Ngô Minh ạ! Mình đã bỏ phí nhiều thời gian trai trẻ, tiếc lắm”. Chao ôi, đã hưu trí, đã “thất thập cổ lai hy” rồi vẫn lao vào cầm bút quyết liệt như anh Nhất Lâm, đáng kính nể biết bao nhiêu. Anh nghèo, không có tiền mua xe máy, đạp cái xe đạp cà tàng, không máy vi tính, không email, không Facebook, chỉ viết bằng tay. Anh đạp xe đi khắp chốn như một tay giang hồ bí ẩn. Đi nuôi mẹ già 90 ốm nặng ở Quảng Trị hơn 50 cây số cũng đạp xe. Có lần giữa đường xe đạp bị hỏng xích, không có tiền trả, anh gãi đầu, vuốt vuốt mái tóc bạc, rồi nghĩ ra cách ký tặng người thợ sửa xe tập thơ mới xuất bản. Nhờ có thơ mà người thợ sửa xe vui vẻ cảm ơn và không lấy tiền.
Nghèo, nhưng in sách thì anh không hề tiếc tiền, dù có phải vay mượn. Anh vay bà Phương Chi, vợ nhà thơ Vĩnh Mai ở Hà Nội để trả tiền in tập truyện ngắn Kinh thành bỏ ngỏ, vay bạn bè in tiểu thuyết Đồi không tên... In sách rồi tự đi phát hành. Thu được đủ vốn rồi thì lấy vốn đó in tập sách khác, còn lại bao nhiêu sách tặng bạn bè cho bằng hết. Gặp ai anh cũng tặng sách. Vô Bệnh viện Trung ương Huế thăm người bạn ốm, gặp cô y tá nhiệt tình thế là anh rút sách ra ký tặng. Đi chơi với tôi ở Hồ Than Thở, Đà Lạt, thấy hai cô gái bán cà phê ríu rít, anh rút thơ trong túi ra ký tặng như là thân quen từ lâu lắm…
Nhất Lâm không chỉ viết và in sách của mình mà anh còn sống chết vì bạn hết mực. Hồi nhà thơ Phương Xich Lô mất, Nhất Lâm đã rút hết số tiền trong sổ tiết kiệm 9 triệu đồng dành dụm cho ‘việc hậu sự’ của mình để in tập Nguyễn Văn Phương - Xích lô hành. Một tập sách làm kỷ niệm năm năm ngày mất của nhà thơ trẻ tài hoa mệnh yểu. Anh bảo: “Sách in 600 bản, bán thu đủ vốn rồi, số tiền còn lại sẽ đưa cho gia đình Phương để lo giỗ chạp hàng năm cho nó”. Anh mang Xích lô hành đi phát hành và tặng bạn bè tận Sài Gòn. Một nghĩa cử cao đẹp mà không phải người có tiền nào cũng làm được. Nhà thơ Hải Bằng mất (1998), Nhất Lâm đến nhà ngủ cạnh quan tài nhà thơ để cho ‘anh ấy ấm lòng’. Anh bỏ ra hàng tháng trời ra Hà Nội đọc và chỉnh sửa giúp bà Phương Chi hồi ký về nhà thơ Vĩnh Mai, một nhà thơ cộng sản cương trực người Quảng Trị mà anh rất kính trọng và nể phục. Nhà thơ Trần Hữu Tâm Phương ở Huế mất, Nhất Lâm đi vận động bạn bè quyên góp để làm đám tang vì Tâm Phương nhà nghèo. Ông Lê Văn Hoan, một cán bộ lãnh đạo tỉnh Quảng Trị có lối sống và quan điểm rất gần dân, rất tân tiến; anh bỏ ra cả tháng trời để chấp bút tập hồi ký 350 trang của ông. Năm 2016, anh cùng bạn bè tổ chức bản thảo, quyên góp tiền để in tập Thơ Tôn Phong, nhân giỗ đầu nhà thơ người Huế ở Nha Trang. In xong rồi anh mang sách đi bán. Được mấy triệu đồng anh tìm cách chuyển tiền cho chị Lệ Mỹ vợ nhà thơ Tôn Phong. Chị Lệ Mỹ điện ra khóc, nói: “Cảm ơn Nhất Lâm và anh em Huế. Tôi không có lương hưu. Nhờ số tiền nhuận bút này mà tôi tổ chức được giỗ đầu cho anh Phong!”
Nhất Lâm là một thi sĩ thực thụ. Thơ anh mộc mạc, nhưng cái chất lãng tử, cái chất thi sĩ ngang tàng thì thật đậm: Ly dày ly cạn đêm nhòa nhạt/ Áo mới em choàng nhuốm bâng khuâng... (Suối đêm); Giang hồ tôi uống bao quán vắng/ Nước mắt nhòe mưa về bến sông (Mưa). Thơ Nhất Lâm là thứ thơ chiêm cảm, thơ chắt từ chính cuộc đời mình, nên nặng lòng trắc ẩn. Không ngất ngưởng, ngang tàng, không yêu thương cuộc đời hết mực, thì không thể viết được những câu thơ xa xót như thế này: Vòng tay khóa chặt ngang eo rượu/ Ôm trọn tình nhau tròn số không. Trong tập Vú Đá, Nhất Lâm có những câu thơ rất tinh diệu, mới mẻ: Ngạt ngào mùi đêm vắng... hay Ngày thác lũ/ sông đỏ bầm máu dữ/ Hành kinh cho nhân loại phù sinh (Sông đêm).
Nhất Lâm sống như viết, đầy trực cảm và say mê. Mở cửa sổ tầng ba căn hộ chung cư sau đêm viết khuya, gặp ánh trăng man mác, thế là anh không dừng được đam mê, xách xe đạp xuống ba tầng cầu thang khu cư xá Đống Đa, một mình đạp xe đi chơi trăng đến sáng! Anh đạp xe lang thang như một kẻ mộng du. Đến khi chạm cầu, chạm biển Thuận An mới tỉnh ra, biết mình đang ở xa nhà hơn chục cây số! Bạn chơi của anh là những nhà thơ trẻ ở Huế như Hải Trung, Nguyễn Phước Trung Trường, Lê Huỳnh Lâm, Phạm Nguyên Tường, Hồ Đăng Thanh Ngọc, Lê Tấn Quỳnh, Đông Hà...
Với cái trực cảm khảng khái của mình, những truyện ngắn cũng như nhiều bài báo chống tiêu cực của Nhất Lâm luôn luôn trực diện, thẳng thừng, làm không ít người chột dạ. Có lần bọn tiêu cực đã thuê côn đồ mang hung khí đến nhà anh de dọa. Có ông quan cấp cả trăm mét vuông đất cho người chấm luận án cho mình để được cái bằng thạc sĩ, Nhất Lâm có ngay tiểu phẩm Thạc sĩ đất in báo. Có lần anh viết bài báo về Tàu Thuận An 06 của tỉnh Thừa Thiên Huế đi buôn lậu ở Trung Quốc về bị bão, đắm ở biển Hải Nam. Bọn buôn lậu đã thuê bọn côn đồ tìm đến nhà đánh anh bị thương. Anh phải lánh ra tận nhà nhà thơ Hải Kỳ ở Đồng Hới để được an toàn. Nhất Lâm luôn tâm niệm: Trăm năm một ván cờ/ Thua được ta thờ ơ... (Trăm năm)!
Nhất Lâm vẫn vậy, sống là viết và viết là sống, chết rồi vẫn muốn có ích cho đời. Ôi, một nhà văn luôn dấn thân đấu tranh vì lẽ công bằng, bởi anh yêu quá cuộc đời này!
Huế, 1/9/2016
N.M
(SHSDB22/09-2016)
MINH KHÔICuối tháng bảy vừa qua, giáo sư ngôn ngữ và văn chương Wayne S.Karlin và nữ phóng viên Valerie, công tác ở một Đài phát thanh thuộc bang Maryland, Mỹ đã đến Huế tìm thăm nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, để chuyển cho chị bản hợp đồng in ấn và phát hành tập thơ Green Rice (Cốm Non) do cơ quan xuất bản gửi từ Mỹ sang.
FRED MARCHANTCó những vết thương chẳng thể nào lành lặn và có những nỗi đau chẳng bao giờ mất đi. Kinh nghiệm nhân loại khuyên ta không nên “chấp nhận” hay “bỏ đi” hay “vượt lên” chúng. Với một con người mà tâm hồn thương tổn vì đã làm cho người khác khổ đau hay chứng kiến nhiều nỗi đau khổ thì những câu nói như thế hoàn toàn vô nghĩa.
BÍCH THU (Đọc thơ Dòng sông mùa hạ của Hoàng Kim Dung. NXB Hội Nhà văn, 2004)Nhìn vào tác phẩm đã xuất bản của Hoàng Kim Dung, tôi nhận thấy ở người phụ nữ này có sự đan xen giữa công việc nghiên cứu khoa học với sáng tạo thi ca. Ngoài bốn tập thơ và bốn cuốn sách nghiên cứu về nghệ thuật đã in, với tập thơ thứ năm có tựa đề Dòng sông mùa hạ mới ra mắt bạn đọc, đã làm cán cân nghiêng về phía thơ ca.
ĐÔNG HÀVăn hoá và văn học bao giờ cũng có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thể thấy rằng văn học là một bộ phận của văn hoá, nó chịu sự ảnh hưởng của văn hoá. Khi soi vào một thời kì văn học, người đọc có thể thấy được những khía cạnh về phương diện đời sống văn hoá tinh thần của một thời đại, một giai đoạn của xã hội loài người.
HÀ KHÁNH LINHViết được một câu thơ hay có khi phải chiêm nghiệm cả một đời người, hoàn thành một tập truyện, một tập thơ là sự chắt chiu miệt mài suốt cả quá trình, sau Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ VII Lê Khánh Mai liên tiếp trình làng tập thơ "Đẹp buồn và trong suốt như gương" (Nhà xuất bản Hội Nhà văn) và "Nết" tập truyện ngắn (Nhà xuất bản Đà Nẵng).
NGUYỄN TRỌNG TẠOCó người làm thơ dễ dàng như suối nguồn tuôn chảy không bao giờ vơi cạn. Có người làm thơ khó khăn như đàn bà vượt cạn trong cơn đau sinh nở. Có người không đầy cảm xúc cũng làm được ra thơ. Có người cảm xúc dâng tràn mà trước thơ ngồi cắn bút. Thơ hay, thơ dở, thơ dở dở ương ương tràn ngập chợ thơ như trên trời dưới đất chỉ có thơ. Thơ nhiều đến ngạt thở chứ thơ chẳng còn tự nhiên như hơi thở mà ta vẫn hoài vọng một thời.
THẠCH QUỲSuốt đời cần mẫn với công việc, luôn mang tấm lòng canh cánh với thơ, vì thế, ngoài tập “Giọng Nghệ” in riêng và bao lần in chung, nay Ngô Đức Tiến lại cho ra tập thơ này.
Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).
Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.
Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/ Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.
Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.
LÊ HUỲNH LÂM (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.
HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không
ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)
NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.
NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.
L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc
NGUYỄN XUÂN HOÀNG (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)
YÊN CHÂU (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.
BÙI ĐỨC VINH (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.