Nhật ký Tây tiến viễn chinh của Trần Duy Chiến

10:43 11/12/2008
PHẠM PHÚ PHONG Tập nhật ký Tây tiến viễn chinh (do Đặng Vương Hưng biên soạn và giới thiệu, Phạm Tiến Duật viết lời bạt, Nxb Hội Nhà văn, 2005) của liệt sĩ Trần Duy Chiến, bắt đầu viết từ ngày 7.10.1978, khi anh mới nhập ngũ, đến ngày 25.6.1980, trước khi anh hy sinh gần một tháng.

1. Trong mười mấy tiểu loại của thể ký, thì nhật ký là tiểu loại gần với hiện thực nhất. Nó không chỉ có tính chân thực, mà còn trung thực, xác thực đến tận cùng. Giữa nghệ thuật và đời sống dường như trùng khít lên nhau, không còn có khoảng cách. Bởi vì người viết nhật ký bao giờ cũng viết cho chính mình, một mình mình đọc, một mình mình hay. Các thứ lý thuyết về tiếp nhận văn học, đối với thể văn này dường như trở nên bất lực. Không có quá nhiều những điều phải bận tâm, lục vấn về những vấn đề viết cho ai, viết để làm gì,... Nhật kí là viết cho chính mình, quá trình viết không chỉ là quá trình độc thoại mà còn là quá trình đối thoại với chính mình. Hơn nữa, nhật ký của Trần Duy Chiến là nhật ký chiến trường của một người lính trực tiếp chiến đấu, không phải là nhật ký văn học, anh không hề có ý định làm văn chương: Tôi viết những dòng mà tim tôi không muốn viết. Tôi đọc những lời mà chính tôi không muốn đọc. Tôi đang nghĩ những lời mà tôi không bao giờ nghĩ đến. Tôi đã nói những lời mà hình như không phải tôi nói... (tr.56).

Không có chủ định làm văn chương, nhưng chen lẫn giữa những dòng nhật ký, anh làm đến hơn bảy mươi bài thơ, trong đó bài ngắn chỉ có bốn câu, bài dài đến một trăm bốn mươi câu, đó là do tâm hồn anh đòi hỏi. Không có chủ định làm văn chương, nhưng nhiều trang nhật ký của anh thật sự là những trang văn đẹp, những cảm nghĩ đẹp đến nao lòng: “Tôi như cánh cò hoang dưới chiều nhạt nắng, lang thang tìm chút dư hương trên cánh đồng vắng lững lờ, không nơi trú ẩn. Cò bay mãi cho tôi được nhìn quê hương qua đôi mắt nhỏ. Tôi không mơ bạc vàng hay châu báu. Tôi chỉ giữ lại trong tôi một buổi chiều khi nắng vàng len lén vướng hồn tôi.” (tr.79).

Không bị lệ thuộc một cách khiên cưỡng vào một thể loại văn học và ý thức của một người sáng tạo nghệ thuật, tác giả không bị gò bó trong một khuôn khổ, một sự chi phối nào, mà tất cả được giãi bày một cách hồn nhiên, tự nhiên những cảm nghĩ thực của tâm trạng trước đời sống. Cũng chính vì thế, tác phẩm không chỉ là nhật ký mà có đoạn là hồi ký, là tản văn, là đoản văn, tạp văn hoặc những ghi chép báo chí. Nhật ký ghi ngày 12.10.1978 chỉ có hai mươi sáu dòng là một đoản văn súc tích, phóng túng và lãng mạn về một người tình nào đó: “Cho tôi xin một lần chờ em dưới ánh trăng mờ soi sáng con đường cát dẫn vào nhà em. Xin một lần hẹn em để rồi em không đến, để rồi em trễ hẹn và chỉ còn một mình tôi dưới trăng mờ soi mỗi hồn tôi với nỗi cô đơn chồng chất trong lòng” (tr.29); nhật ký các ngày 7.3.1979, 2.7.1979 dài hơn hai trang là những tản văn tiếc nuối về tuổi học trò; nhật ký các ngày 28.1.1979, 10.10.1979 viết về quê hương, về ngày sinh của mình anh lại chuyển thành hồi ký; nhật ký các ngày 24.10.1978, 03.06.1979 là những đoản văn mượt mà đầy ắp tình yêu thương về người mẹ, về quê hương... Những đoạn văn như thế có đầy đủ các yếu tố tạo nên chỉnh thể của một tác phẩm, thể hiện đúng những đặc trưng của một tiểu loại thuộc thể ký, hoàn toàn có thể lấy nguyên xi từ nhật ký in thành một tác phẩm độc lập.

2.
Khác với hồi ký, nhằm vào hiện thực quá khứ, đã khúc xạ qua lăng kính thời gian được tái tạo lại, nhật ký nhằm đến những sự kiện, những cảm nghĩ vừa mới xảy ra, đang xảy ra, hướng đến một tư tưởng, chủ đề nhất định. Khi phải đối mặt với cái chết, người ta không thể tự lừa dối mình. Đọc Trần Duy Chiến, thỉnh thoảng ta vẫn gặp những tư tưởng lo âu trước cái chết đang ngày đêm rình rập: “Cứ mỗi chiều, khi chút nắng vàng còn đậu lại trên chốp đầu cây thốt nốt trước nhà, là tôi lại một lần lo lắng: không biết đêm nay địch có tập kích vào nơi tôi ở không? Đó là câu hỏi thường hiện lên trong tôi những lúc trời chập choạng tối. Để đến lúc ông mặt trời ló chiếc đầu đỏ hói từ phương đông nhìn sang, thì câu hỏi của tôi mới được trả lời- đêm qua địch không tập kích, tôi vẫn còn sống và tiếp tục một ngày mới. Cứ thế, ngày này nối ngày kia trôi nhanh qua trong sự lo lắng, khiến tôi chẳng nhớ rõ ngày nào là ngày nào cả.” (tr.156); hoặc có lúc anh phải thốt lên: “Mẹ ơi! con bắt đầu sợ cái bộ chiến y màu lá thắm mà con đang mặc (...). Nó ôm kín và dìu con vào những nơi có tiếng súng nổ, có sự chết chóc. Con sợ lắm mẹ ơi” (tr.129); thậm chí anh đã từng có ý nghĩ: “Có lắm lúc tôi muốn vụt bay khỏi quân trường này, nhưng liền sau đó lại thôi. Tôi không thể làm như thế được. Mọi người thanh niên đều nghĩ và làm như tôi, thì lấy ai cầm súng giữ nước?” (tr.37).

Anh là người lính thế hệ sau năm 1975, nghĩa là khi đất nước đã thống nhất, nhưng ý nghĩ của anh không khác với thế hệ cha anh trong hai cuộc kháng chiến trước kia là mấy: “Chúng tôi đã đi không tíếc đời mình/ (nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc?)/ Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc!”. Thanh Thảo, người tiêu biểu cho thế hệ các nhà thơ thời chống Mỹ, đã từng nói như vậy. Trần Duy Chiến đã ý thức và xác định nhiệm vụ một cách rõ ràng: “Quay viên thì nhàn thật, súng đạn khó hỏi thăm. Thế nhưng tôi chả thích tí nào. Thà ra ngoài chiến trường cầm súng bắn thẳng vào mặt quân thù, còn sướng hơn làm cái anh quay viên này (...). Tôi không sợ chết. Tôi chỉ sợ trong suốt quãng đời bộ đội của tôi chẳng bao giờ được cầm cây súng bắn thẳng vào mặt quân thù...” ( tr.58, 59). Trần Duy Chiến cũng xác định “mình không phải là người cách mạng”, nhưng anh yêu quê hương đất nước, xuyên suốt nhật ký là nỗi nhớ quê hương da diết, những hồi ức nồng ấm về tuổi thơ, mái trường, bạn bè, người thân, nhất là người mẹ.

Nhật ký chỉ ghi được trong vòng một năm tám tháng mười tám ngày và không phải ngày nào cũng có điều kiện ghi đối với cuộc sống và chiến đấu của một người lính ở mặt trận; thậm chí, có ngày anh chỉ ghi được có ba dòng như ngày 11.10.1978 (tr.28), có ngày anh ghi mười một trang như ngày 14.8.1979 (tr.158-169), anh ghi về cuộc sống gian khổ, thiếu thốn của người lính, từ cái ăn, cái mặc cho đến thuốc lá... nhưng vượt lên trên tất cả những điều ấy là một tình yêu vô bờ đối với quê hương, tuy có khi không nói ra thành câu chữ, nhưng thông qua sự kiện và ý nghĩ, ta có thể nhận ra mục đích lẽ sống, bản lĩnh và cả tư duy, giọng điệu đậm đặc chất Quảng Nam.

3.
Nhật ký là hình thức tự sự ở ngôi thứ nhất. Có khi tác giả xưng là tôi, là mình, là tớ, những trang viết về mẹ, viết cho mẹ anh xưng là con, thậm chí có khi còn xưng là lính, nhưng dù ở cách nhân xưng như thế nào, người đọc đều có thể nhận ra hình tượng tác giả là chân dung người lính thế hệ sau 1975, vừa biết tiếp tục phát huy mục đích lý tưởng của thế hệ đi trước, vừa là con người thực, có ý thức đầy đủ về trách nhiệm của một người lính đi làm nghĩa vụ quốc tế, trong bối cảnh đất nước vừa mới hoà bình. Đi sóng đôi với hình tượng tác giả là gian khổ, hy sinh in theo đấu chân anh qua nhiều nơi như Lâm Phát, Buôn Lung, Tà-keo, Lô-via, Mung, Tà-lá, Xay-cờ-rơn, Tà-sanh... ở đâu trong anh dường như bao giờ nỗi nhớ cũng nặng hơn ba lô, súng đạn: “Có nhiều khi tôi nằm hát nghêu ngao một mình như người đãng trí, nhưng mặc kệ! Tôi hát cho quên đi ngày tháng trôi qua. Tôi hát không cần hay, không có đầu đề hay đoạn cuối. Tôi hát cho chính tôi nghe, hát cho tôi quên ngày tháng nhớ. Hát để nỗi buồn thực tại không làm tôi thấy trống trải hoang vu” (tr.40).

Xoay quanh hình tượng nhân vật trung tâm-nhân vật tác giả là một thế giới nhân vật sống động, đa diện đa sắc, trong đó có cả người tốt lẫn kẻ xấu, cả bóng đen của kẻ thù và niềm tin ấm áp ở tương lai; bên cạnh những người thân anh khắc khoải mơ về như người mẹ, người em, còn có một người con gái mơ hồ chưa được anh gọi tên, hoặc một em gái hậu phương mang tên Hồng Hạnh nào đó; bên cạnh những đồng đội đồng cam cộng khổ có thể hy sinh cả mạng sống cho nhau như Chính, Lâm, Thọ,... còn có cả những người khoe khoang, hèn nhát, nhỏ nhen, ích kỷ cố chấp... Ngay cả trong đội ngũ, anh cũng nhận ra những người lính thật và thứ lính mệnh danh: “Đời lính là một chuỗi ngày chất chứa đầy rẫy những cực khổ và lo âu. Ai là người cầm súng mà không có cái suy nghĩ như tôi, có chăng là những con người không bao giờ thật thà với lương tâm của mình và một số người mệnh danh là cầm súng nhưng chưa bao giờ cầm súng mới không cùng cái suy nghĩ ấy. Bởi nhẽ họ cũng đổ mồ hôi, nhưng vào những lúc lao động, họ cũng đi hành quân từ nơi này đến nơi khác nhưng bằng xe. Quá lắm, nếu có vận dụng đến đôi chân thì bù lại chiếc ba lô sau lưng họ chứa những thứ đồ dùng cá nhân hàng ngày. Chúng nặng đến độ thả xuống nước có thể làm chiếc phao cho những ai chưa biết bơi dìu nó mà qua sông” (tr.164).

Đã có nhiều nhật ký của các nhà văn như Nguyễn Huy Tưởng, Nam Cao, Chu Cẩm Phong, Dương Thị Xuân Quý... đã được in thành sách. Nhưng đó là các nhà văn chuyên nghiệp, viết nhật ký đối với họ không chỉ là ghi tài liệu mà còn là hoạt động sáng tạo có ý thức. Trần Duy Chiến ghi lại nhật ký chỉ là đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của tâm hồn một cách tự nhiên như bản năng của con người. Vì thế, cố nhiên những điều anh đặt ra sau đây chỉ là giả định: “Nếu một mai tôi chết? Thì cuốn “nhật ký” này sẽ là những gì còn lại của cuộc đời tôi. Đó là một người bạn vô tư và thuỷ chung mà tôi yêu quí. Tất cả tấm lòng với khối óc tôi đã trao gởi vào đây. Nếu một mai tôi không còn nữa, xin dành những ước mơ đẹp nhất cho quê hương yêu dấu...” Có thể nói đó là những trăn trối sau cùng, được người biên soạn trích in vào trang bìa bốn, khi đọc được làm cho ký ức một thời chiến tranh trong tôi, bỗng dậy lên, buộc tôi phải cẩn trọng lật giở từng trang sách nặng trịch máu và thuốc súng, bước vào thế giới tâm hồn rộng rinh của một con người chỉ dừng lại trên cõi đời chưa tròn 23 năm, mà đã biết sống và chết đều đi đến tận cùng ý nghĩa của nó. Những gì mà tác giả đặt ra và còn đọng lại cho đến hôm nay có giá trị cho mọi thời, cho dù cuộc sống bao giờ cũng như một dòng sông đang cuộn chảy.

4. Có được Tây tiến viễn chinh đến tay người đọc là công của nhiều người, trong đó có người đồng đội của tác giả là Nguyễn Văn Chính dám “liều mình” đem tám quả pin đèn để đổi lấy những trang ghi chép của bạn mình khỏi bị làm giấy quấn thuốc lá, sự phát hiện, biên soạn và giới thiệu của Đặng Vương Hưng, Phạm Tiến Duật (Đặng Vương Hưng còn giới thiệu nhật ký của nhiều liệt sĩ khác như Nguyễn Văn Thạc, Hoàng Kim Giao, Hoàng Thượng Lân, Trần Minh Tiến) và cả những chú thích của đại tá Nguyễn Văn Hồng... Cuối cùng, xin được có lời không đồng tình với ý kiến trong lời giới thiệu sau đây của Đặng Vương Hưng: “Trần Duy Chiến đã không chủ ý cung cấp cho bạn đọc những thông tin tình cảm riêng tư của mình, nhưng đọc lại, đôi khi ta có cảm giác anh không chỉ viết riêng cho một người cụ thể nào đó, mà còn viết cho cả những bạn đọc hôm nay” (tr.16).

Không đúng. Không chỉ những “thông tin tình cảm riêng tư”, mà cả những miêu tả về các sự kiện, con người, cuộc sống và chiến đấu của người lính viễn chinh, anh đều chỉ viết riêng cho mình, không cung cấp cho bạn đọc nào cả, thậm chí không thể “cho một người cụ thể” nào và cố nhiên không thể “cho cả những bạn đọc hôm nay”! Hồi ký có thể viết cho nhiều người, thư (như của Hoàng Kim Giao) có thể viết cho một hoặc nhiều người. Nhật ký chỉ viết riêng cho mình. Người viết nhật ký chỉ độc thoại với mình, đối thoại với những sự kiện và con người mà mình quan tâm (trong sự tưởng tượng) chứ không có người đọc cụ thể. Nếu cho rằng, Trần Duy Chiến viết nhật ký cho một người nào đó đọc, là hạ thấp giá trị, xúc phạm những cảm nghĩ cao đẹp mà nó vốn có, anh Hưng ạ...!
 P.P.P

(nguồn: TCSH số 209 - 07 - 2006)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HOÀNG KIM DUNG      (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập  truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)

  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...

  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?

  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...

  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.