Nhẩn nhơ một chữ thanh nhàn

14:31 09/03/2021

ĐÔNG HÀ

Thường trong thời gian của cuộc đời, người ta hay dành riêng khoảng thời gian đáng trân trọng nhất, đó là những ngày đầu năm mới, để nói về muôn sự.

Ảnh: NSNA Văn Đình Huy

Buồn vui có, được mất có. Nhưng kiểu gì cũng phải dọn mình cho sự thảnh thơi một khoảng, như một cách nhìn lại những tháng ngày đã qua, về những ngày đi tới, để nghiệm chiêm quá khứ, vọng hướng tương lai. Từ đó mà đi những bước nhàn du hay tất bật. Tôi thường dành những ngày cuối năm để huân-tập- nghi-lễ riêng mình như vậy.

Và thường bắt đầu từ những buổi đi thật dịu dàng trong nắng trong mai với tâm thế thật hiền. Tôi bắt gặp Huế của một không gian thiền tâm không vùng đất nào có được. Ở đây, khi ra đường, chỉ cần bạn để tâm mình đằm sâu bên trong một chút, bạn có thể nghe được âm thanh vang vọng từ ngái xa về tiếng mõ ai đó tụng buổi kinh sớm mai, tiếng chuông ngân từ ngôi giáo đường trong sương sớm, tiếng lá tách mình ra khỏi cành rơi xuống, tiếng chênh chao chiều của chú tiểu cầm chiếc phất trần xua bụi giữa thinh không. Đừng nói Huế cổ xưa, đó là Huế của hôm nay đấy chứ, Huế sống không ồn ào phô phang, không rộn ràng náo nhiệt. Huế đang vui trong cái trầm lắng tươi tắn sinh động chân như trong suốt thuở Huyền Trân mang Huế về cho con dân Đại Việt được mở mang bờ cõi mà không cần một giọt máu đào nào phải rớt rơi.

Lạ kỳ một điều, khi tôi đi đến những thành phố lớn nhỏ trên đất nước hình chữ S thân thương này, những quán xá là các cuộc gặp rầm rộ của khách chủ ầm ào tay bắt mặt mừng đua chen, thì Huế lại không. Quán cà phê, quán nước, quán trà, cả quán nhậu hay nhà hàng Huế, tôi vẫn thường thấy những cuộc chuyện rì rầm thầm thĩ mà ở đó người hẹn người gặp đều kín đáo cuộc chuyện trò riêng tư. Họ từ tốn trong nói chào, họ chừng mực trong câu chuyện, họ giữ gìn trong cái vui riêng không ảnh hưởng đến không gian chung. Cơ hồ, ở Huế, mỗi người sống nơi đây đã tự đóng khung cho mình một khoảng không lơ lửng trước mặt hai bên mấy mét vuông của chính con người mình để đi đâu cũng mang theo tạo ra khoảng cách vô nhiễm vậy.

Từ lối sống đó, người xa người gần than Huế cũ quá, Huế chậm quá, Huế buồn chi mà buồn. Ngay cả người Huế khi đi đâu về cũng bất giác thở dài, sông Hương ơi thôi dùng dằng hãy chọn một lối nào mà chảy trôi xuôi đi. Rồi người Huế bắt đầu lật trở tìm tòi con đường thay đổi để Huế vui hơn. Để người sống ở Huế không như chén ngọc xưa giấu mình dưới đáy sông, và người đến Huế không chỉ biết thưởng thức mỗi món chầm chậm vớt lên từ dưới sông hoặc ngồi ngắm nắng đổ ơ hờ qua mái. Tôi đã thấy thành phố chuyển mình. Những hàng cây lên xanh khiến Huế trở thành một ngôi nhà vườn khổng lồ khi đi dưới tán cây long não lại tưởng mình về lại ấu thơ thuở tựa lưng bên vách nhà nghe Mạ gánh chợ đường xa. Dưới những tán cây xanh um, tôi nghe tiếng thơ người xưa mà ngỡ bậc đồ nho tri túc đang ngồi nheo mắt cười dưới mái hiên nhà ông cố giễu cợt kẻ ấu nhi vụng về. Tiếng thơ thảnh thơi rằng: “Một mai, một cuốc, một cần câu/ Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”. Nếu nói Huế là thành phố vườn, thì hình ảnh trong câu thơ trên hiện lên thật thú vị. Ơ kìa, ông Trạng Trình lừng danh muôn thuở với tri thức uyên thâm tài trí hơn hơn, mà sao câu thơ để đời lại giản dị đến nhường kia. Những vật dụng nhà nông, bàn tay chai sần nào cũng cầm lên được. Nhưng tôi đồ rằng, không một nông phu nào soạn sửa ra đồng lại đi đếm từng vật dụng đến thế kia! Thói quen công việc hằng thường, người ta cứ thế mà vác lên vai mỗi ngày, đâu ai đếm một cái này một cái kia thế đâu. Nên câu thơ giản dị của Nguyễn Bỉnh Khiêm làm tôi chợt dừng lại ngó nghiêng. Phải chăng, nó lạ lẫm quá với ông? Phải chăng, bàn tay tài hoa quen phẩy nét chữ rồng bay phượng múa, giờ cầm những vật dụng nhà nông bỗng trở nên khác lạ, nên phải đếm, phải cẩn trọng, phải thật thẽ thàng kẻo sợ bỏ sót đi mất? Người xưa mây trắng từ lâu làm sao tôi hỏi được. Nhưng khởi tự tâm, tôi bật cười. Con người trí huệ ấy, khi trở về chân đất áo nâu đâu dễ gì không bỡ ngỡ ngác ngơ. Ở câu thơ thứ hai, “chân tướng” con người này đã dần lộ diện: “Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”! Người nông phu với nông cụ trên tay, có ai “thơ thẩn” đâu!!! Ông Trạng Trình của chúng ta xóa ván cờ người của mình lui về ở ẩn chân quê, chọn nơi vắng vẻ náu mình, và tôi hình dung ông đang ngồi ngó nghiêng đời sống ấy bằng đôi mắt tỉ mỉ cẩn thận, rồi thật chậm mà tham gia vào đó như một kẻ du thiền trong rừng cây Tiếng Nhạc thảnh thơi. Bởi thế mà ông đã thốt lên “Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ/ Người khôn người đến chốn lao xao” đấy ư. Con người minh triết đã nhận ra khôn dại. Nơi vắng vẻ đã đành, vậy chốn lao xao có tội tình chi không? Tôi nghĩ là không. Chốn lao xao là nơi kinh kỳ đô hội, nơi gặp gỡ hiền tài, nơi xôn xao chuyện đời chuyện người chuyện tân kỳ vận hội mới mà trong đời người hẳn ai cũng muốn đến. Phường danh lợi kiếm cơm nhưng bậc tài trí sẽ được thỏa lòng dâng hiến. Người khôn đến đó, hẳn là điều nên! Vậy tại sao con người trí huệ ấy lại bỏ đi về nơi vắng vẻ? Sao người trí huệ ấy từ chối không ở chốn đô hội để thỏa sức cống hiến cho đời? Tôi đồ rằng, chốn đô hội ấy, cái lao xao đã vượt quá ngưỡng chuẩn mực những đấng bậc. Chốn lao xao ấy đã không còn nơi cho bậc tài trí dụng thân. Và ông rời đi, bằng sự mẫn cảm của trái tim yêu đời sống và đôi mắt thông tuệ của bậc tài trí hơn người. Người vậy, ai dám nói “dại”, ngoài cách ông tự phúng dụ bản thân.

Huế là kinh đô xưa. Bao truông hồ sóng ầm vây quanh hổ gầm thét lác, bao bãi cát dài lại bãi cát dài chùn bước kẻ sĩ để cuối cùng lại thành vùng trũng hứng hết những tinh hoa khắp xứ đổ về. Huế là chốn lao xao, là nơi phồn hoa đô hội. Chẳng thế mà bao thi đàn văn xã đã từng được khởi xướng tự nơi đây. Bao vết tích của một thời vinh hoa vương giả vẫn còn đọng lại trên nét son môi thiếu phụ, trên vành khăn đội đầu tôn ông, trên cái đài đệ khoát tay của bậc phụ mẫu. Nhưng là cái lao xao của rộn rã, của các bậc thức giả, nên sâu thẳm trong đời sống hằng ngày, vẫn là cái nền nã mực thước trên dưới trước sau.

Mang cái nết thanh tao của người xưa cũ, những hôm hây hẩy nắng mùa xuân, nghe mái ngói thiết tha tiếng chim cu gù gáy có gọi đôi, tôi lại soạn sửa tâm tính mình, làm chuyến hành hương tâm hồn để kịp cùng hoa lá mùa xuân.

Đ.H  
(TCSH384/02-2021)



 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • VĨNH NGUYÊNTrước mặt tôi là thăm thẳm sâu hút chập chùng xanh đến rợn người mà thích thú làm sao! Hồ Truồi trong vắt dưới chân như ta có thể rơi tòm xuống đó nếu không may để sẩy bước hụt. Và, sau lưng tôi là chót đỉnh Bạch Mã gần kề như chỉ còn một tầm tay với. Nơi đây, mang cái tên lộng lẫy: Vọng Hải Đài!

  • NGUYỄN VĂN DŨNGTôi không tin rằng một cô gái đẹp thì lúc nào cũng đẹp. Sông Hương cũng thế. Sông Hương là quà tặng ưu ái của Thượng đế dành cho kẻ phàm trần.

  • NGUYỄN HỮU THÔNGĐêm thêm như một dòng sữa.Lũ chúng em, âm thầm rủ nhau ra trước nhà.Đêm thơm, không phải từ hoa,Mà bởi lòng ta thiết tha tình yêu thái hòa.Đời vui như men sayNgọt lên cây trái..

  • NGUYỄN XUÂN TÙNGSống lạc quan yêu đời, luôn luôn làm chủ được những suy nghĩ, tình cảm và hành động để tự thắng mình trong mọi hoàn cảnh là một phẩm chất cao đẹp của Bác Hồ.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGỞ Huế hình như không có mùa thu, mùa thu chỉ ghé lại thành phố giữa một mùa nào đó, mùa hè chói chang hay mùa đông rét mướt. Vì thế, bao giờ người ta cũng đón chào mùa thu bằng nỗi vui mừng đến với một người thân đi xa mới về để lại vội vã ra đi, bằng một cái mà nhạc sĩ tiền chiến Đặng Thế Phong gọi là “Con thuyền không bến”. Trên sông Hương, hình như thường có nỗi bơ vơ chờ sẵn những tâm hồn lãng tử quen xa nhà từ vạn cổ.

  • TRẦN THÙY MAI“Khuôn mặt em đâu phải chữ điền, Trúc không che ngang mà che nghiêng”

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGCái tin anh Phương mất đột ngột đến với tôi lúc 11 giờ đêm, qua giọng rã rời nghẹn ngào của nhà thơ Lương Ngọc An báo Văn nghệ, lúc tôi đang “dùi mài kinh sử” ở khu ký túc xá trường Đại học Y Hà Nội để lấy cho xong cái bằng Thạc sỹ.

  • Hành trìnhĐã từ lâu tôi cứ muốn đi núi Tuý Vân để tìm hiểu xem sao nó được vua Thiệu Trị liệt vào hàng thứ 9 trong “Thần kinh nhị thập cảnh”.

  • Trước năm 1945, mỗi lần đi qua Ái Tử, tôi không khỏi lo sợ… Một sự lo sợ mơ hồ. Còn vì sao mà sợ thì cũng chẳng biết.

  • Ngay lần đầu tiên gặp ông đã đầy kỷ niệm. Đại đội tôi giao quân bên bờ một con suối đẹp cách sông Hương không bao xa. Anh Nguyễn Châu trưởng ban quân lực Thành đội nhận quân xong, ông đến bắt tay từng người.

  • Tôi vừa đến vùng Bắc Tây Nguyên được mấy hôm thì gặp địch càn quét. Hôm đó tôi định vào cơ quan xã Đaktô để làm việc không ngờ gặp địch dọc đường, tôi tạt vào rừng và nhắm hướng trở lại đơn vị, nhưng càng đi càng lạc sâu vào rừng thẳm.

  • Rời Bắc Hải chúng tôi bảo nhau từ giờ trở đi sẽ chỉ ở khách sạn chứ ở nhà người quen có cái vui nhưng cũng gây phiền toái cho bạn bởi chúng tôi đi chơi bất tử chẳng có giờ giấc nhất định nào.

  • Có một lão ngư kiêm lão nông suốt mấy chục năm trời vắt mồ hôi thành muối, tưới mồ hôi thành sông hồ mà mảnh vườn nhà vẫn cằn khô, chiếc thuyền nhà vẫn không tanh mùi cá biển. Quang cảnh vườn nhà cứ một mùa xanh lại ba mùa rụng lá, khô cành. Vợ chồng con cái chỉ thấy mắt chẳng thấy mồm. Xung quanh hàng xóm cũng chung hoàn cảnh.

  • Đấy là vào khoảng cuối chiến dịch Điện Biên Phủ – 1954. Đơn vị chúng tôi (đại đội 410 – đội 40 – TNXP Trung ương) được điều đi nhận nhiệm vụ mới.

  • 1. Cô bạn cùng cơ quan nghe nói tôi “có tay nuôi người”, lại quen biết giao du rộng rãi nên có ý nhờ tìm một người giúp việc nhà cho vợ chồng cô em gái.