Nhân đọc tập thơ “Dòng sông đi xa” của Trương Đình Minh (Phú Ninh)

09:57 22/04/2008
Thơ là một bức xúc của tình cảm và tư tưởng con người, buộc con người phải diễn ra bằng ngôn ngữ, âm thanh, màu sắc, đường nét, hình khối. Thơ là đòi hỏi, là nhu cầu của con người, nếu không biểu lộ được ra thì còn bức rứt khổ sở.

Vậy thì việc làm thơ ở những người khác có tâm huyết với đất nước, có suy tư về đời sống dân tộc  thật cần như khí trời, như ánh sáng vậy. Trong đời sống tinh thần của mỗi con người Việt Nam từ thời xa xưa, khi ngôn ngữ đã phong phú, văn hoá đã hình thành và phát triển, chúng ta không thể thiếu giọng hát, tiếng đàn, hình người và vật khắc lên đá, lên gỗ, những đền đài lăng tạ và những lời thơ xuất hiện từ thời thô sơ đến tinh vi; Phản ảnh sâu sắc tâm hồn người Việt từ những thế kỷ dựng nước, giữ nước và xây nền cho mổ xã hội vạn hoá văn minh.
Nếu chúng ta quan niệm thơ nói riêng trên tinh thần ấy thì tập thơ của Trương Đình Minh (Phú Ninh) mà bạn đọc đã có trên tay, ít nhiều cũng là một chứng minh, dẫu còn bé nhỏ sơ sài. Anh Trương Đình Minh đi vào thơ như khởi đầu một hành trình xúc cảm và suy tưởng tự thân. Vốn là một anh bộ đội công binh, luôn phải xông lên phía trước, dấn thân vào đạn xé bom gầm để bảo vệ những tuyến đường cho Tổ quóc như mạch máu trong cơ thể con người; Anh đã sống một đời sống chiến sĩ đầy gian nan, hiểm nghèo. Anh đã chia sẻ suộc sống nhièu đau khổ và không ít vẻ vang với nhièu bạn trai, bạn gái, người già, người trẻ trong những năm tháng chống Mỹ ác liệt. Hết chiến tranh, anh được chuyển ngành ra ngoài, lại tiếp tục lên đường, đi mở đưòng phá núi, san đường suốt dọc dãy Trường Sơn tưởng vô định, cùng với anh em đồng đội chia sẻ ngọt bùi một sống  một chết khi đánh giặc giữ nước, một lòng một dạ cùng nhau xây dựng hoà bình. Cuộc sống hàng ngày của anh thật phong phú, đầy ắp những kỷ niệm những xúc cảm. Cuộc sống đó anh thấy cần phải làm thơ viết nhạc như hàng ngày cần ăn, cần uống. Cũng lại vì thế mà những bài thơ anh viết ra điều dung dị chất phác và chân thật:
            “... Ơi đàn em có biết
            Đất vườn xưa nói gì?
            Nơi em vừa đứng hát
            Có hồn người ra đi...”
Hồn thơ anh luôn rung động vì anh chứng kiến quá nhiều nỗi đứt đoạn, nỗi tàn phá của những con  đường, những chiếc cầu... Anh cũng lại chứng kiến và trực tiếp cùng đồng đội chắp nối xây đắp và mở rộng những con đường đi về nhiều phía của quê hương tử bnạn mà không thể chết. Nên anh có những câu thơ lạng lẽ mà kiêu hãnh chịu đau.
            “... Đồng đội tôi lao vào đồn giặc
            Lửa đạn bom chống chéo đỏ trời
            Lớp lớp xông lên
            Bao đồng chí mình hoá thân không về nữa
            Mang theo mảng trời xanh, miền quê đất lạ
            Đôi ngày trăng ngọt...
                             Dở dang...”
Anh cũng đã chịu nỗi đau của tình yêu bị cách trở, nhưng anh không kêu to, chỉ im lạng thầm thì.
            “... Có bận về thăm em
            Hoa hồng xưa đã nở
            Tôi dừng chân bên sông
            Con đò ngang cách trở
            Giờ tóc đã phai sương
            Bên mảnh vườn xóm cũ
            Hương đồng bay xôn xang
            Bên sông chiều sóng vỗ...”
Rất đau đấy. Nhưng phải để qua đi như mọt con sóng vỗ bờ; Mất mát đau khổ thật như thế; Anh đã viết được những câu chỉ nhẹ nhàng thế thôi mà đau đớn thế. Bởi vì dân tộc ta mang một số phận nghiệt ngã suốt hai nghìn năm là liên miên chiến tranh, ly loạn trièn miên thời tiết khắc nghiệt:
            “... Quê ta thường vấp ngày hạn kiệt
            Mà đêm nay có người khen anh
            Tay tát nước tài tình
            Nào ai biết mảnh đạn chiến trường
            Trong anh còn nhức buốt đêm đông...”
Cũng như những tháng năm miền Trung bị bão lụt. Anh đã từng chứng kiến: Nỗi đau và mất mát.
            “... Tôi khuyên em đừng khóc
            Mà sao mưa cứ rơi...
            Thôi em đừng khóc nữa
            Anh khuyên em mà mưa như thác đổ
            Trời Trị - Thiên xam xám một màu
            ... Tà Rụt, Khe Sanh, A Lưới, A Sầu...
Nhưng anh tin rằng bão tố sẽ qua đi. Huế sẽ sáng lên đón những ngày đẹp nắng.
Những câu thơ rất dung dị: Nhưng khi đọc đến, khó cầm dòng nước mắt.
Nỗi đau do chiến tranh, mảnh đất khắc nghiệt của miền Trung - Quê hương anh đã đi một nhẽ. Lại còn nỗi đau do chính đồng chí của mình hôm qua, hôm nay đã thành xa lạ. Ta hãy đọc một nỗi buồn riêng của anh không dao to búa lớn gì, chỉ nhẹ như một làn bụi mỏng - Một nỗi đau, một nỗi đau nữa từ khi hết chiến tranh:
            “... Chiếc xe tôi không phanh
            Đén thăm người bạn cũ
            Nghe anh có chức quyền
            Tôi cơ hàn - Mưa gió
            Tìm...
Hớn hở tìm anh...
Quay trở về đau khổ
Đâu đồng chí anh em
Củ sắn lùi - chia nửa
Đâu đồng chí anh em 
Những ngày chia đòn lửa...”
Tập thơ của anh Trương Đình Minh (Phú Ninh) dẫu đơn sơ bé bỏng song tôi nghĩ vẫn là món quà quê đáng quý, anh gửi tặng những ai còn giữ lại được một tấm lòng quê... Đây là những dòng cảm nghĩ của tôi viết tặng người bạn trẻ: Trương Đình Minh sau khi đọc tập thơ “Dòng sông đi xa” rất cảm động của anh.
Hà Nội, tháng 6 năm 2000

 
HOÀNG CẦM
(nguồn: TCSH số 143 - 01 - 2001)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN THUỲ MAI            (Đọc Uẩn khúc, tiểu thuyết của Hoàng Văn Bàng, NXB Thuận Hoá 2002)Câu chuyện xảy ra ở một vùng quê không xa lắm, với một tầm mức tai hại không lớn, gây một ảnh hưởng mới xem qua tưởng chừng không đáng kể. Một ông trưởng phòng ở huyện tham ô vài chục triệu thì đã thấm gì so với những câu chuyện động trời hàng ngày trên các báo, mà thủ phạm mang những chức tước lớn lao hơn, với những số tiền khổng lồ tới hàng nghìn tỉ!

  • MAI VĂN HOAN         (Giới thiệu các tác giả thuộc chi hội nhà văn Việt Nam tại Huế)Ngô Minh là một trong những nhà văn Việt Nam ở Huế được Đài truyền hình Cáp Việt Nam chọn giới thiệu tới 45 phút trong chương trình “Người của công chúng”. Tôi cũng được mời nói đôi lời về anh. Với tôi, Ngô Minh là người làm việc “tới số” và chơi cũng... “tới số”!

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNCùng một kiếp bên trời lận đận                  (Bạch Cư Dị - Tỳ bà hành)Nhà văn Bùi Ngọc Tấn vừa cho ra mắt tác phẩm Rừng xưa xanh lá (Mười chân dung văn nghệ sĩ) tại Nhà xuất bản Hải Phòng (1/2003).

  • TÔ VĨNH HÀNhững trang viết sau cùng của một con người luôn luôn là điều thiêng liêng và không bao giờ hết bí ẩn. Vì sao lại dùng từ ấy chứ không phải là chữ kia; đề cập đến cái này chứ không phải là cái khác..? Rất nhiều câu hỏi sẽ đến với người đọc khi trước mắt ta là những ý tưởng hiện hữu sau cùng của một đời người - đặc biệt ở con người vĩ đại như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là cái tên mà mỗi người Việt lúc đọc hay nói, không chỉ diễn đạt một quan niệm gần như vô hạn của nhận thức, mà hơn nhiều thế nữa - là âm sắc tuyệt vời của sự kết tụ những tinh hoa quý giá nhất của trái tim mình.

  • NGUYỄN TỐNGQuê hương đất nước và con người luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau trong suốt chiều dày của lịch sử dựng nước và giữ nước. Nó tự nhiên chan hoà đến mức như cá bơi quẫy giữa đại dương, chim tung cánh vô tư giữa bầu trời bát ngát. Đến lúc nào đó, khi con người rơi vào cảnh cá chậu chim lồng, tình cảm, ý thức về đất nước thiêng liêng mới trở nên ám ảnh day dứt.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ           (Đọc “Thân Trọng Một – con người huyền thoại” của Nguyễn Quang Hà)Đã từ lâu, tên tuổi anh hùng Thân Trọng Một trở nên thân quen với mọi người, nhất là với quân dân Thừa Thiên Huế; những “sự tích” về ông đã thành truyện “truyền kỳ” trong dân chúng và đã được giới thiệu trên nhiều sách báo. Tuy vậy, với “THÂN TRỌNG MỘT – CON NGƯỜI HUYỀN THOẠI”, lần đầu tiên, chân dung và những chiến công của ông đã được tái hiện một cách đầy đủ và sinh động nhất.

  • Nhà văn Nguyễn Quang Hà tâm sự với tôi rằng anh có hai món nợ rất lớn mà chắc đến khi nhắm mắt xuôi tay cũng không thể nào trả xong. Hai món nợ mà anh đang gánh trên đôi vai của mình là món nợ đối với nhân dân và món nợ đối với đồng đội. Gần bốn mươi năm cầm bút, anh đã viết 9 tập tiểu thuyết; 7 tập truyện ngắn, ký, truyện ký; 2 tập thơ cùng với hàng trăm bài báo cũng chỉ mong sao trả được hai món nợ ấy.

  • XUÂN CANGNhờ cuốn hồi ký nhỏ Ngày ấy Trường Sơn (Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội - 2000) của Nguyễn Khoa Như Ý- tên khai sinh của Hà Khánh Linh, bạn đọc được biết đây là một nhà văn nữ có khí chất không bình thường. Một người con gái mảnh dẻ, nhưng có chí, mơ mộng, ham hành động, vì nghĩa lớn mà dấn thân vào nơi nguy hiểm.

  • Sau Vị giáo sư và ẩn sĩ đường, Ba lần đến nước Mỹ, trong năm 2002, GS. Hà Minh Đức tiếp tục ra mắt bạn đọc tác phẩm Tản mạn đầu ô. Vậy là trong khoảng 5 năm, bên cạnh một khối lượng lớn những tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình, ông đã sáng tác 3 tập thơ và 3 tập bút ký. Đó là những con số mang nhiều ý nghĩa thể hiện sự "đa năng" của một đời văn tưởng đã yên vị với nhiều danh hiệu cao quý và hơn 30 tập sách nghiên cứu, lý luận, phê bình. Tản mạn đầu ô ra đời được dư luận chú ý, quan tâm. Sau đây là cuộc trao đổi giữa PGS. TS Lý Hoài Thu với GS. Hà Minh Đức xung quanh tập sách này.

  • HUỲNH HẠ NGUYÊN         (Đọc tập thơ "Khúc đêm" của Châu Thu Hà - Nxb Thuận Hoá - 11/2002)...Thơ Châu Thu Hà mang đậm nữ tính. Khi trái tim biết cười, hay khi giàn giụa nước mắt, ta bỗng thấy quý sao những phút sống chân thành với cuộc đời, với mọi người. Châu Thu Hà không để trái tim mình tuột xuống phía bên kia triền dốc, chị cố bước tới và neo lại, để thấy mình được xẻ chia, được yêu chiều, xoa dịu...

  • LÊ MỸ Ý (L.M.Y):  Thưa nhà thơ, là một người có thể tạm gọi là thuộc thế hệ đi trước nhưng lại luôn "gây sốc" bằng những tác phẩm tìm tòi mới, chắc hẳn ông có quan tâm nhiều đến thế hệ thơ trẻ? Có thể có một nhận xét chung về thơ trẻ hiện nay chăng?NHÀ THƠ HOÀNG HƯNG (H.H): Tất nhiên là tôi rất quan tâm. Nhận xét chung của tôi về thơ trẻ bây giờ là đa số vẫn mang tính phong trào. Có thể nói là những người làm thơ trẻ vẫn đi theo một vết mòn của thế hệ trước, chưa thấy rõ những bứt phá, chỉ nổi lên một số tác giả theo cách lẻ tẻ.

  • Tại sao cô chỉ làm thơ tự do?- Trước hết, bởi tôi thích tự do. Tự do ở đây, được hiểu là: nói, làm, dám mơ ước và tham vọng tất cả những gì mình muốn, không bị tác động và chi phối bởi ai, bởi bất cứ điều gì.

  • NGUYỄN THỤY KHA Đã là lạ tên một tác phẩm khí nhạc mang tực đề "Eo lưng" của nữ nhạc sĩ Kim Ngọc. Lại thu thú khi đọc tập thơ "Nằm nghiêng" của nữ thi sĩ Phan Huyền Thư. Một thế kỷ giải phóng của Việt Nam thật đáng kính ngạc.Cái cách giải phóng mình, phái yếu trong đó có mình của Phan Huyền Thư là sự độ lượng với cũ kỹ, là mỉa mai sự nửa vời, là quyết liệt lặng lẽ vươn tới cách tân theo một thế của “Nằm nghiêng”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCòn nhớ mùa Huế mưa 1992, Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đến nhà tôi chơi, mang theo bản thảo đánh máy tập thơ đầu tay của một tác giả mới 20 tuổi có tên là Văn Cầm Hải. Một cái tên lạ mà tôi chưa nghe bao giờ. Những bài thơ của anh cũng chưa hề xuất hiện trên mặt báo. Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đều nói rằng; "Thơ tay này lạ lắm. Ông xem thử".

  • NGUYỄN QUANG HÀNgồi đọc NGÀN NĂM SAU mà như đang ngồi nói chuyện tay đôi với Nguyễn Trọng Bính. Giọng thơ anh cũng cứ chân chất, yêu quê hương và say đời như chính con người anh. Từ thời chiến tranh, chúng tôi đã ở trong rừng với nhau. Cứ ngồi với nhau là bộc bạch hết. Một lá thư riêng, một rung động mới, chúng tôi cũng chia sẻ với nhau.

  • PHAN THÀNH MINHĐó cũng là tựa đề tập thơ rất dễ thương của Trần Tịnh Yên - nhà thơ của đất kinh kỳ thơ mộng thuở nào - thú thật  là tôi đã vô cùng hạnh phúc khi nhận được tập thơ này do chính  tác giả gởi tặng, dễ thương ở chỗ khổ giấy nhỏ nhắn, trình bày đẹp trang nhã, sách 80 trang với 46 bài thơ cũng mỏng mảnh như thế nhưng nhìn rất thơ, càng thơ hơn nữa khi chính tác giả tự viết lời phi lộ cho mình, tôi rất hợp với anh ở điểm này bởi lẽ chẳng ai có thể thay thế cho mình bằng mình để nói hộ những gì mình muốn nói...:...năm xưa qua ngõ sân đìnhcó người nhặt được mối tình ai rơi

  • NAM NGỌC            (Về tập truyện ngắn mới nhất của nhà văn Võ Thị Xuân Hà do Công ty Truyền thông Hà Thế liên kết NXB Phụ nữ xuất bản và phát hành quý I năm 2009)Tập truyện gồm 14 truyện  ngắn, với những mô típ khác nhau nhưng cùng chung gam màu thấm đẫm chất liệu hiện thực. Tất cả đã tạo nên một chỉnh thể thống nhất mà ở đó các nhân vật dù xấu dù tốt cũng đều hướng tới cái đẹp, cái nhân bản của con người. Cách viết truyện lạ cùng với những chi tiết, tình tiết được lắp ghép một cách khéo léo, Võ Thị Xuân Hà đã một lần nữa gây ngạc nhiên cho người đọc bằng bút pháp ẩn không gian đa chiều của mình.

  • BÍCH THUHơn một thập niên trước đây, với hai truyện ngắn Hồi ức của một binh nhì và Vết thương lòng, Nguyễn Thế Tường đã đoạt giải cao trong cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức năm 1992 - 1994. Tôi còn nhớ một trong số các nhà phê bình đã thành danh của nhà số 4 Lý Nam Đế không kìm được cảm xúc của mình với chùm truyện dự thi của Nguyễn Thế Tường lúc ấy đã thốt lên: “Tôi thích truyện ngắn Nguyễn Thế Tường”. Từ đó đến nay, Nguyễn Thế Tường vẫn miệt mài viết và lặng lẽ ra sách. Người đàn bà không hoá đá là lần ra mắt thứ năm của anh.

  • HOÀNG VŨ THUẬT                (Đọc “Trăng đợi trước thềm”, thơ Hải Bằng, NXB Thuận Hoá - 1987)Đổi mới là trách nhiệm vừa là bổn phận đang diễn ra sôi động trong đời sống văn học hôm nay. Nhưng ranh giới giữa cũ và mới không dễ dàng phân định khi đánh giá một tác phẩm văn chương nghệ thuật.

  • ĐINH NAM KHƯƠNG               (Nhân đọc “ru em ru tôi” Thơ Trương Vĩnh Tuấn NXB: Hội nhà văn - 2003)Có một nhà thơ nổi danh thi sĩ, làm “quan” khá to ở báo văn nghệ. Nhưng chẳng bao giờ thấy ông vỗ ngực, ngạo mạn nói lời: “ta là quan đây” mà ông luôn dân giã tự gọi mình là hắn, xưng hô với bạn bè là mày tao:                          “...Hình như hắn là nhà quê                          Hình như hắn từ quê ra...”                                                                (Gốc)