NHÂN 100 NĂM CUỘC KHỞI NGHĨA CỦA VUA DUY TÂN Ở HUẾ

14:16 10/01/2017

Thông reo hồn chí sĩ

LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG - TRẦN VĂN DŨNG

Cổng An lăng, bên trong là nơi chôn cất và thờ cúng vua Dục Đức, Thành Thái và Duy Tân - Ảnh: wiki

Có những chiều mưa tôi lang thang dọc đường Duy Tân với bao kỷ niệm thời hoa niên. Ngày đó, con đường Duy Tân bé nhỏ, con con hàng quán và những hàng cây đại thụ xanh xanh quen chân chúng tôi một thời sinh viên la cà xóm vắng. Phòng trọ của hai người bạn Chương, Nam gần cổng vào An Lăng là khu mộ chung của ba thế hệ làm vua: Dục Đức (cha), Thành Thái (con) và Duy Tân (cháu). Những câu chuyện, những cuộc tranh luận với chúng tôi thời ấy xoay quanh chủ đề này khá nhiều. Riêng vua Duy Tân và cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quang Phục Hội năm 1916 gây ấn tượng mạnh. Vua tên húy là Nguyễn Phước Vĩnh San sinh ngày 19/9/1900 tại Kinh thành Huế, là con trai thứ 5 của vua Thành Thái. Vua lên nối ngôi năm 1907 chỉ vừa 7 tuổi khi vua cha bị phế ngôi, lấy niên hiệu là Duy Tân. Một vị vua trẻ lên ngôi trong hoàn cảnh đất nước bị thực dân Pháp, đô hộ, quyền lực chính trị của triều đình hầu như không có. Tôi nhớ mãi câu của vị nhỏ tuổi nhưng sớm nuôi chí lớn “Nước dơ phải lấy máu mà rửa”. Câu nói bất hủ ấy được sử sách ca tụng như ý chí của một vị anh hùng, yêu nước bằng chính con tim rực cháy khát vọng tự do, độc lập.

Có đêm trăng, chúng tôi mang rượu ra nhâm nhi bên bãi cỏ nhỏ trước cổng An Lăng. Bóng trăng nghiêng nghiêng soi bóng xuống khe nước nho nhỏ, nơi ban ngày có thể thấy những chiếc lá tre, trúc chảy hàng đoàn xanh thắm. Khung cảnh yên bình, thơ mộng ấy trái ngược hẳn với khúc nghẹo Trần Phú tới cầu Kho Rèn chật cứng xe cộ. Tôi nhớ như in những bài học hồi đó về vua Duy Tân, sau khi khởi nghĩa không thành đã bị lưu đày ra đảo La Réunion ở Ấn Độ Dương trong năm 1916. Bà Suzy, một người con gái của vua Duy Tân kể rằng nhà vua là người có nhiều tài, ông có thể chơi vĩ cầm, viết văn, cưỡi ngựa, đánh kiếm và làm thơ. Đặc biệt, ông là người rất ham mê máy móc kỹ thuật, nhất là kỹ thuật truyền tin. Vì vậy, chính quyền đảo La Réunion đã đặt ông thiết lập một hệ thống truyền tin đầu tiên trên đảo thời bấy giờ. Và đặc biệt thay, vua Duy Tân sau khi bị đưa đến đảo La Réunion, đã mưu sinh bằng cách mở một tiệm sửa chữa máy móc cho cư dân trên đảo. Tiệm có tên là La Radio. Sau này vua Duy Tân tham gia không quân của quân đội Pháp và mất trong một tai nạn máy bay ở Trung Phi năm 1945. Tháng 4/1987, hài cốt của vua Duy Tân được đưa về nước, và được an táng tại khu An Lăng, cạnh nơi an nghỉ của vua cha Thành Thái, và vua Dục Đức (ông nội) mà chúng tôi đương ngồi đây.

Trong một lần tìm hiểu, nghiên cứu về vua Duy Tân, chúng tôi đã tìm thấy một phần Di chúc của vua Duy Tân, đăng trên nhật báo Combat của Pháp ngày 16/7/1947 có đoạn: “Điều mà tôi mong muốn là tất cả các con dân Việt Nam ý thức được họ là một quốc gia và ý thức ấy sẽ thúc đẩy họ dựng nên một nước xứng danh là quốc gia”. Từ ý tưởng đó, một bài viết về vua Duy Tân được được thực hiện như một công việc nhóm cho cuộc seminar trước lớp với những tranh luận. Rằng có thông tin ít nhất 4 lần được người ta đề nghị nhà vua cùng trốn khỏi đảo để trở về Việt Nam nhưng vua Duy Tân đều từ chối, bởi người muốn trở về một cách công khai đàng hoàng. Tư cách hành biện và ứng xử của vua Duy Tân là một chuẩn mực lớn, là nhân cách lớn của một vị vua yêu nước.

*

Mãi sau này, một lần nói chuyện với anh Trần Văn Dũng, một người trẻ nghiên cứu về những lịch sử - văn hóa Huế. Trong một lần điền dã, tôi có dịp theo anh đến thăm nhà thờ cụ Võ Đình Cơ - nơi vua Duy Tân bị Pháp bắt. Ngôi nhà thờ cụ Võ Đình Cơ có địa chỉ tại số 119 đường Thiên Thai, phường An Tây, thành phố Huế là địa điểm ghi dấu sự kiện vua Duy Tân, chí sĩ Thái Phiên, Trần Cao Vân và một số đồng đội tham gia cuộc khởi nghĩa đã bị Pháp bắt vào ngày 6/5/1916. Theo lời kể của ông Võ Đình Nam (57 tuổi) là hậu duệ đời thứ 4 của cụ Võ Đình Cơ, hiện đang ở và hương khói nhà thờ. Ông Nam thường được nghe mệ nội và cha mình kể chuyện về sự kiện vua Duy Tân đến ẩn nấp và bị Pháp bắt tại nhà của mình. Theo ông, cụ cố Võ Đình Cơ làm chức Đội trưởng Đội Nhã nhạc dưới triều vua Duy Tân, người dân thường gọi là Đội Cơ. Khi vua Duy Tân và các cận vệ vượt đường rừng núi đến đây ẩn nấp thì cụ cố đang ở Đại nội Huế. Lúc này bà cố Hồ Thị Lan nhầm tưởng vua Duy Tân là người đi thăm mộ vì nhà vua lúc này cải trang thành thường dân chân đi đất, đầu chít cái khăn đen, mình mặc áo cụt đỏ sẫm và quần vải trắng. Sau một hồi nói chuyện với vua Duy Tân thì bà cố biết vua Duy Tân ngự tại nhà mình và bắt một con gà mái đang ấp trứng để nấu cháo gà dâng vua. Sau khi nhà vua ăn bát cháo gà xong thì quân Pháp do Đổng Lý của Tòa Khâm Le Fol, Chánh mật thám Trung Kỳ Sogny cầm đầu kéo đến bắt vua Duy Tân. “Gặp tình thế vậy, vua Duy Tân vẫn thản nhiên không chút gì sợ hãi, vẫn nói chuyện như lúc còn ở triều”; và chửi luôn tên Trần Quang Trứ thông đồng với người Pháp là “Phải, ta nhớ mặt mi: đồ phản quốc!» Đây là một cuộc đối thoại lịch sử, dù là câu trả lời như thế nào thì vua Duy Tân đều tỏ rõ ý chí chống thực dân Pháp xâm lược rất quyết liệt. Ông Võ Đình Nam còn cho chúng tôi biết thêm thông tin mà các tư liệu sử sách trước đây không nhắc đến đó là khi vua Duy Tân bị Pháp bắt, một số cận vệ đi theo bảo vệ vua đã tuẫn tiết bằng cách treo cổ trên thân cây gần nhà mình để tránh không rơi vào tay giặc. Trong quá trình điền dã khảo sát các khu đất tiếp giáp với nhà thờ cụ Võ Đình Cơ chúng tôi đã phát hiện một số am miếu nhỏ mà người dân ở đây nói là để thờ tự các vị quan cận vệ vua Duy Tân đã hy sinh và cũng được nghe các vị cao niên trong làng kể nhiều chuyện ly kỳ về sự linh thiêng họ truyền tụng cho đến ngày nay.

*

Hằng năm, vào đầu xuân, anh em văn nghệ sĩ Huế tổ chức Viếng mộ thi nhân. Những lần ấy, chúng tôi đều ghé vào nghĩa trang đồi Từ Hiếu, nơi có khu mộ chung của hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân. Những nén nhang ấm cúng giữa ngày xuân, giữa những cơn mưa phùn bay trên những ngọn thông vi vu đất trời. Mới đây, tôi có dịp đưa nhà báo Kiều Mai Sơn đi thăm mộ, vừa tròn kỉ niệm 100 năm khởi nghĩa Việt Nam Quang Phục hội, nhìn bát hương lạnh, hoa đèn ngả nghiêng bên ngôi mộ chung của hai chí sĩ, không khỏi chạnh lòng trước cảnh hoang tàn đổ nát.

Cuộc khởi nghĩa bi tráng thất bại, những nghĩa sĩ đều bị xử chém. Hai chí sĩ Thái Phiên và Trần Cao Vân tuy sinh không cùng năm nhưng lại cùng lý tưởng cách mạng cho sự nghiệp chống thực dân Pháp giành độc lập dân tộc, cùng hy sinh vào một ngày và cùng được an nghỉ với nhau chung một ngôi mộ. Sau khi bị thực dân Pháp áp giải đến pháp trường Cống Chém hành hình ngày 17/5/1916, thi thể của chí sĩ Thái Phiên và Trần Cao Vân bị vùi lấp bên cồn Mả Thí. Tháng 6/1925, bà Trương Thị Dương (người làng Hà Đồ, xã Quảng Phước, huyện Quảng Điền) là đồng chí của hai ông trong Đảng Việt Nam Quang phục hội cùng một số đồng chí đã bí mật đưa hài cốt của hai chí sĩ Thái Phiên và Trần Cao Vân từ cồn Mả Thí về chôn cất gần tháp Hòa thượng Kiết Mao thuộc làng Dương Xuân Thượng, huyện Hương Thủy, phủ Thừa Thiên trước sự canh giữ gắt gao của triều đình Huế và thực dân Pháp. Sau đó 11 ngày việc cải táng có nguy cơ bị lộ, bà Dương lại bí mật dời hài cốt hai ông đem qua chôn chung một mộ phía bên này đường, tại đồi thông chùa Từ Hiếu.

Từ đó, bà Dương vẫn thỉnh thoảng vào Huế chăm sóc, hương khói cho ngôi mộ hai cụ Thái Phiên và Trần Cao Vân. Mãi sau khi Hiệp định Genève được ký kết, thực dân Pháp rút quân về nước, đến năm 1956 bà Dương mới kể lại cho con cháu và mọi người rõ về nguồn gốc ngôi mộ, rồi dựng tấm bia nhỏ bằng xi-măng trước mộ hai ông khắc dòng hàng chữ Hán: “Bính Thân nhị nguyệt cát nhật - Phụng vị Trần Cao quý công, Thái Duy quý công chi mộ”. Bắt đầu từ đây, ngôi mộ chung của hai cụ mới được nhiều người biết đến và được người dân thường xuyên hương khói.

Vào năm 1992, ngôi mộ chung của chí sĩ Thái Phiên và Trần Cao Vân được nhà nước quan tâm cấp kinh phí, tôn tạo khang trang xứng với tầm vóc và sự hy sinh của hai nhà chí sĩ yêu nước. Khuôn viên ngôi mộ chung có đài tưởng niệm cao 4,3m ghi hai dòng chữ Hán lớn: “Trần Cao quý công, Thái Duy quý công”. Ngôi mộ xưa vẫn được bảo tồn nguyên vẹn là nấm đất sỏi hình tròn, trước mộ là tấm bia xưa do bà Dương phụng lập để định danh vị cho ngôi mộ hai cụ. Ngôi mộ, đài tưởng niệm có bình đồ kiến trúc hình chữ nhật 7,2m x 7,6m, chung quanh có lan can bao bọc. Trên thành mộ có hai bảng khắc chữ Việt ốp vào tường. Bảng khắc bên trái (nhìn từ ngoài vào) ghi: “Thái Phiên (1882 - 1916), quê làng Nghi An, xã Hòa Phát, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. Trần Cao Vân (1866 - 1916), quê làng Tư Phú, tổng Đa Hòa, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (nay là thôn Tư Phú, xã Điện Quang, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam). Hai nhà yêu nước đã có công lớn khởi xướng, lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Duy Tân chống thực dân Pháp năm 1916. Cơ mưu bị lộ, hai ông bị bắt và tử hình tại Cống Chém, An Hòa, thành phố Huế ngày 17 tháng 5 năm 1916”. Có thể nói, tinh thần yêu nước và hình tượng ngôi mộ chung của hai chí sĩ Thái Phiên và Trần Cao Vân đã trở thành bất tử trong lòng người dân Việt. Với những giá trị về mặt lịch sử, văn hóa, ngôi mộ chung của hai nhà yêu nước Thái Phiên và Trần Cao Vân đã được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử (lưu niệm) cấp quốc gia theo Quyết định số 575-QĐ/VH ngày 14 tháng 7 năm 1990.

*

Lập đông, chúng tôi về lại nghĩa trang giữa muôn trùng hoang vu, những âm thanh kỳ bí tràn đầy cây cỏ. Quá khứ lịch sử đã lùi xa nhưng hào khí oai hùng của cuộc khởi nghĩa vua Duy Tân năm xưa với những tên tuổi các anh hùng, nghĩa sĩ trên dải đất miền Trung đã như vua Duy Tân, chí sĩ Thái Phiên, chí sĩ Trần Cao Vân, chí sĩ Tôn Thất Đề, chí sĩ Nguyễn Quang Siêu đã trở thành bất tử, được hậu thế tri ân. Xin thắp nơi đây nén nhang thành kính giữa buổi mù sương xứ Huế.

L.V.T.G - T.V.D  
(SHSDB23/12-2016)










 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • HỒ DZẾNH
             Hồi ký

    Mai sau dù có bao giờ
    Đốt lò hương ấy, so tơ phím này

                                 NGUYỄN DU

  • LÝ HOÀI THU

    Tôi nhớ… một chiều cuối hạ năm 1972, trên con đường làng lát gạch tại nơi sơ tán Ứng Hòa - Hà Tây cũ, lần đầu tiên tôi nhìn thấy thầy. Lúc đó lớp Văn K16 của chúng tôi đang bước vào những tuần cuối của học kỳ II năm thứ nhất.

  • PHẠM THỊ CÚC

    (Tặng bạn bè Cầu Ngói Thanh Toàn nhân Ngày Thương binh Liệt sĩ)

  • Người ta vẫn nói Tô Hoài là “nhà văn của thiếu nhi”. Hình như chưa ai gọi ông là “nhà văn của tuổi già”. Cho dù giai đoạn cuối trong sự nghiệp của ông – cũng là giai đoạn khiến Tô Hoài trở thành “sự kiện” của đời sống văn học đương đại chứ không chỉ là sự nối dài những gì đã định hình tên tuổi ông từ quá khứ - sáng tác của ông thường xoay quanh một hình tượng người kể chuyện từng trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, nhiều thăng trầm của đời sống, giờ đây ngồi nhớ lại, ngẫm lại, viết lại quá khứ, không phải nhằm dạy dỗ, khuyên nhủ gì ai, mà chỉ vì muốn lưu giữ và thú nhận.

  • CAO THỊ QUẾ HƯƠNG

    Tôi được gặp và quen nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vào những ngày đầu mùa hè năm 1966 khi anh cùng anh Trần Viết Ngạc đến trụ sở Tổng hội Sinh viên, số 4 Duy Tân, Sài Gòn trình diễn các bài hát trong tập “Ca khúc da vàng”.

  • THÁI KIM LAN

    Lớp đệ nhất C2 của chúng tôi ở trường Quốc Học thập niên 60, niên khóa 59/60 gồm những nữ sinh (không kể đám nam sinh học trường Quốc Học và những trường khác đến) từ trường Đồng Khánh lên, những đứa đã qua phần tú tài 1.

  • Nhung nhăng, tần suất ấy dường như khá dày, là ngôn từ của nhà văn Tô Hoài để vận vào những trường hợp, lắm khi chả phải đi đứng thế này thế nọ mà đương bập vào việc chi đó?

  • Tôi được quen biết GS. Nguyễn Khắc Phi khá muộn. Đó là vào khoảng đầu những năm 80 của thế kỉ trước, khi anh được chuyển công tác từ trường ĐHSP Vinh ra khoa Văn ĐHSPHN.

  • Năm 1960, tôi học lớp cuối cấp 3. Một hôm, ở khu tập  thể trường cấp 2 tranh nứa của tôi ở tỉnh, vợ một thầy giáo dạy Văn, cùng nhà, mang về cho chồng một cuốn sách mới. Chị là người bán sách.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU

    LTS: Trên số báo 5965 ra ngày 07/02/2014, báo Thừa Thiên Huế có bài “Vài điều trong các bài viết về Cố Đại tướng Nguyễn Chí Thanh”, của tác giả Phạm Xuân Phụng, trong đó có nhắc nhiều đến các bài viết về Đại tướng đã đăng trên Sông Hương số đặc biệt tháng 12/2013 (số ĐB thứ 11), và cho rằng có nhiều sai sót trong các bài viết đó.

  • NGUYỄN THỊ PHƯỚC LIÊN

    (Thương nhớ Cẩm Nhung của Hương, Lại, Nguyệt, Liên)

  • BÙI KIM CHI

    Trời cuối thu. Rất đẹp. Lá phượng vàng bay đầy đường. Tôi đang trong tâm trạng náo nức của một thoáng hương xưa với con đường Bộ Học (nay là Hàn Thuyên) của một thời mà thời gian này thuở ấy tôi đã cắp sách đến trường. Thời con gái của tôi thênh thang trở về với “cặp sách, nón lá, tóc xõa ngang vai, đạp xe đạp…”. Mắt rưng rưng… để rồi…

  • LÊ MINH
    Nguyên Tư lệnh chiến dịch Bí thư Thành ủy Huế (*)

    … Chỉ còn hai ngày nữa là chiến dịch mở; tôi xin bàn giao lại cho Quân khu chức vụ "chính ủy Ban chuẩn bị chiến trường" để quay về lo việc của Thành ủy mà lúc đó tôi vẫn là Bí thư.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LAN

    Cách đây mấy chục năm ở thôn Gia Lạc (hiện nay là thôn Tây Thượng) xã Phú Thượng có hai nhà thơ khá quen thuộc của bà con yêu thơ xứ Huế. Đó là bác Thúc Giạ (Ưng Bình) chủ soái của Hương Bình thi xã và cha tôi, Thảo Am (Nguyễn Khoa Vi) phó soái.

  • (SHO). Nhân dân Việt Nam khắc sâu và nhớ mãi cuộc chiến đấu can trường bảo vệ biên giới tổ quốc thân yêu tháng 2/1979. Điều đó đã thêm vào trang sử hào hùng về tinh thần bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của dân tộc.

  • NGUYỄN CƯƠNG

    Có nhiều yếu tố để Cố đô Huế là một trung tâm văn hóa du lịch, trong đó có những con đường rợp bóng cây xanh làm cho Huế thơ mộng hơn, như đường Lê Lợi chạy dọc bên bờ sông Hương, đường 23/8 đi qua trước Đại Nội, rồi những con đường với những hàng cây phượng vỹ, xà cừ, bằng lăng, me xanh... điểm tô cho Huế.

  • HOÀNG HƯƠNG TRANG

    Cách nay hơn một thế kỷ, người Huế, kể cả lớp lao động, nông dân, buôn bán cho đến các cậu mợ, các thầy các cô, các ông già bà lão, kể cả giới quý tộc, đều ghiền một lại thuốc lá gọi là thuốc Cẩm Lệ.

  • PHẠM HỮU THU

    Với tư cách là Bí thư Tỉnh ủy lâm thời và Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) của tỉnh Thừa Thiên - Huế, đầu năm 1942, sau khi vượt ngục trở về, đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã có quãng thời gian gắn bó với vùng đầm Cầu Hai, nơi có cồn Rau Câu, được Tỉnh ủy lâm thời chọn làm địa điểm huấn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên.
    Để đảm bảo bí mật và an toàn, Tỉnh ủy đã chọn một số cơ sở là cư dân thủy diện đảm trách việc bảo vệ và đưa đón cán bộ.
    Số cơ sở này chủ yếu là dân vạn đò của làng chài Nghi Xuân.

  • TRẦN NGUYÊN

    Thăm Khu lưu niệm Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, như được trở về mái nhà thân thương nơi làng quê yêu dấu. Những ngôi nhà bình dị nối nhau với liếp cửa mở rộng đón ánh nắng rọi vào góc sâu nhất.

  • PHẠM HỮU THU
           Nhân kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22 - 12

    “Có những sự thật quá lớn lao của một thời, đến nỗi hậu thế nhìn qua lớp sương mù của thời gian, không thể nào tin nổi” (Nhà văn Phùng Quán).