Nhạc quán, những tấm lòng

15:44 28/03/2011
LÊ PHÙNGSau nhiều ngày cùng nhau trăn trở - nghĩ suy - hiệp lực - hiệp tâm của những anh, chị em nhạc sĩ ở Huế, Nhạc Quán đã chính thức trình làng với công chúng yêu thích âm nhạc tại Huế vào lúc 20h, ngày chủ nhật (02/01/2011) là ngày Đinh Tỵ (nguyệt đức hợp, tế tự, đính hôn) trong tiết trời vào xuân của Huế, có sáng nắng chiều mưa, có gió về đêm, có lòng người ấm áp, có không gian lãng mạn, trữ tình.

Nhạc quán

“Vạn sự khởi đầu nan” - đúng là như vậy. Song, Hội Âm nhạc Thừa Thiên Huế đã được nhiều tấm lòng sẻ chia không chỉ là tiền bạc, vật chất mà những lời góp ý chân tình, thiện cảm. Ban đầu là một doanh nhân người Huế ở thành phố Hồ Chí Minh, ông Lê Xuân Hoàng từng là ca sĩ của Đội Văn nghệ Xung kích Huế sau năm 1975 qua nghe trao đổi trên điện thoại ông đã bay ra Huế cùng làm việc với BCH Hội Âm nhạc để cùng nhau trao đổi tiêu chí, mục đích của Nhạc Quán và đã đồng tình tặng cho Nhạc Quán một số thiết bị, nhạc cụ và khoản kinh phí 30 triệu đồng để “làm cần câu” cho sự nghiệp ban đầu của Nhạc Quán, ông Nguyễn Mậu Chi - Tổng Giám đốc Công ty Bia Huế mới từ chuyến công du nước ngoài trở về đã đồng ý tiếp BCH Hội Âm nhạc, qua trao đổi đã hỗ trợ 20 triệu đồng để cho Hội có nguồn kinh phí trang trải ban đầu và cũng tặng 20 thùng bia mời khách tham dự chương trình khai trương của Nhạc Quán - với một số vốn “cần câu” khá rủng rỉnh, Nhạc Quán đã trình làng với số đầu tiên qua chủ đề “Xuân Tình Yêu”.

Trước giờ khai màn, nhà văn Nguyễn Đắc Xuân điện thoại báo tin vui là chuẩn bị đón tiếp nhiều anh, chị em “chiến hữu” là những người mê nhạc, nặng lòng với Huế sẽ đến dự và cho số điện thoại mong muốn ban tổ chức mời Tiến sĩ Thái Kim Lan mới từ Đức về để cùng dự chương trình khai trương. Khấp khởi và kỳ vọng, không chỉ khán giả là anh, chị em văn nghệ sĩ, trí thức, thương gia, doanh nhân, công chức mà còn nhiều vị quan chức của tỉnh và thành phố đến dự với sự hưng phấn và niềm cảm thông lạ. Từng bài hát, từng lời ca, từng câu nhạc đệm đã nhận được sự tán dương khích lệ của khán giả, có quá nhiều hoa và tràng pháo tay liên tiếp từ phía khán giả - ca sĩ, nhạc công, ban tổ chức ai nấy đều phấn chấn trước tấm thịnh tình của những người yêu nhạc ở Huế, rồi đến những cái bắt tay thật chặt, những vòng tay ôm thắm thiết khi tan cuộc đã gửi gắm cho nhau hơi ấm nồng nàn với nhiều vị ngọt của niềm tin vào sự bền lâu của Nhạc Quán. Cũng đang trong giây phút trào dâng với nhiều cảm xúc ấy - có đôi vợ chồng, vốn cũng khá quen mặt với nhau trên đường phố chật hẹp của Huế, tuổi cỡ trung niên, kéo vội tôi ra ngoài với giọng Huế “chay”, từ cử chỉ, lời nói, ánh mắt thật tình cảm và cũng lắm nhẹ nhàng, nhưng trong giọng nói có phần hơi “trịch thượng” - “xin lỗi... anh có phải trong ban tổ chức không?, nếu phải tôi đề nghị anh nên đi Sài Gòn... vào trong nớ mà học cách bố trí âm thanh của sân khấu ATB... họ làm âm thanh hay lắm, ở đây tôi nghe hơi bị tức ngực, hơi khó chịu”. Chao ôi! đang trong cảm giác ngọt ngào mà nghe cổ đắng ngắt. Tôi cố gắng hết sức bình tĩnh để cám ơn lời góp ý ấy - đêm về nghĩ vị đắng này phải chăng là dược liệu vậy.

Ngày hôm sau các báo giới đều đăng tải và đưa tin dưới nhiều hình thức: bài, phỏng vấn... về sự ra đời của Nhạc Quán, nhiều cuộc điện thoại liên tiếp điện đến chúc mừng, nhiều lá thư tận từ miền Nam cũng gửi ra chia vui và với nhiều lời gửi gắm, hứa hẹn, động viên. Một nhạc sĩ người Huế khá tài hoa ở Đà Nẵng đã viết một lá thư khá dài, kèm theo hai ca khúc mới viết về Huế, trong thư có đoạn viết: “Khoái là người Huế xa quê, vẫn thường mong ngóng những tin tức từ quê nhà. Vừa qua, nghe tin Hội Âm nhạc Thừa Thiên Huế thành lập Nhạc Quán, trước tiên, xin chúc mừng và mong các anh, chị phát triển Nhạc Quán ngày một đẹp hơn, vui hơn và Huế hơn”, đã được MC trân trọng đọc trong chương trình số 2, chủ đề “Xuân Ca” tối chủ nhật (16/1/2011). Cũng trong đêm này, một vị khách rất sành điệu thưởng thức âm nhạc, đã “Ok” với Nhạc Quán sẵn sàng hỗ trợ 10 triệu đồng để Nhạc Quán thực hiện chương trình nhạc Trịnh Công Sơn vào tối chủ nhật 3/4/2011 nhân kỷ niệm 10 năm ngày mất của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn và hai vợ chồng Bác sĩ Hoàng Viết Thắng cũng sẽ sẵn sàng hỗ trợ phần kinh phí để mời nghệ sĩ saxophone nổi tiếng Trần Mạnh Tuấn về Huế biểu diễn của chương trình nhạc Trịnh. Khi bài hát “out” của chương trình “Ly rượu mừng” vừa kết thúc, hai vợ chồng đã cho ban tổ chức “liều dược liệu” của chương trình đêm hôm trước đã siết chặt tay tôi và hân hoan nói “Anh ơi, hay quá rồi... vợ chồng tôi chắc chắn sẽ không bỏ một chương trình nào của Nhạc Quán...”. Vâng, xin cám ơn những tấm lòng đã dành cho Nhạc Quán. Nhạc Quán xin khắc ghi những tấm lòng và sẽ mãi mãi không phụ lòng những ai yêu mến Nhạc Quán.

L.P
(265/3-11)






Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGÔ MINHHuế trên 350 năm là thủ phủ Chúa Nguyễn Đằng Trong và Kinh Đô của Đại Việt đã tích tụ nhân tài, vật lực cả quốc gia tạo ra một hệ thống Di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc và nổi tiếng như nhã nhạc, lễ hội dân gian, văn hóa ẩm thực... Trong Di sản văn hóa ẩm thực Huế, Văn hóa ẩm thực Cung đình là bộ phận tinh hoa nhất, giá trị nhất!

  • HÀ MINH ĐỨC                   Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.

  • BĂNG SƠN           Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.

  • PHAN THUẬN THẢO                Chiều chiều trước bến Vân Lâu                Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,                Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông.                Thuyền ai thấp thoáng bên sông,                Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non.                                              (Ưng Bình Thúc Giạ)

  • LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!

  • BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm

  • MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.

  • VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.

  • HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.

  • MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.

  • VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.

  • NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar  M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                       Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.

  • TÔN NỮ  KHÁNH TRANG              Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.

  • TRƯƠNG THỊ  CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.

  • NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.

  • BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.

  • NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.

  • PHAN THUẬN AN            Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương.                                              (Bùi Giáng)