NGUYỄN HOÀNG ANH THƯ
Cho đến năm 2013, tôi mới bắt đầu chính thức cầm bút. Tôi miệt mài viết trong 3 năm liền, giống như một cuộc chơi càng viết càng đam mê, có lúc cảm chừng như không đủ thời gian còn lại để viết tất cả những gì mình muốn, song hành cả thơ và truyện ngắn với lối sử dụng bút pháp đa dạng, khi tả thực, khi tượng trưng, lúc huyền ảo, thơ cũng như truyện.
Minh họa: Nhím
Tôi thích viết truyện ngắn, vì lẽ truyện ngắn như là một lát cắt bén và sâu của đời sống. Truyện ngắn đòi hỏi phải có ý tưởng mới lạ, khám phá. Nhiều người cho rằng, phải viết cái gì lớn mới thể hiện được cái tầm lớn, nên viết tiểu thuyết thì mới khẳng định được tầm của một nhà văn. Tôi không nghĩ thế, thể loại không làm nên thành công của một tác phẩm. Với truyện ngắn, tôi có thể thỏa mãn được sự sáng tạo trong lối dựng truyện, phá cách trong kết cấu, độc đáo trong việc thể hiện ý tưởng... Những nhà văn tôi yêu thích đọc hầu hết họ chủ yếu viết truyện ngắn. Tôi thích lối truyện ngắn có ngôn ngữ tinh lọc, ngôn ngữ nhẹ nhàng mà thấm, như thơ vậy. Những tình huống, lời thoại, chi tiết… đôi khi chỉ là những cú chạm rất nhẹ, cốt đủ lột tả được thần hồn của nhân vật. Những truyện ngắn có sức chứa lớn hơn khuôn khổ của nó, có sức nén càng lớn thì nó có thể mạnh rất nhiều lần so với tiểu thuyết.
Tôi quan niệm nhà văn như một “người nặn tò he”, đa dạng và nhiều sắc màu. Với bút pháp, tôi thích những gam màu lạnh, và cũng thỉnh thoảng cũng dùng những gam màu cháy bỏng. Nhưng tôi muốn sự khác biệt, tạo ra một phong cách của riêng mình. Sự khác biệt đó thể hiện qua từng lời văn. Người làm thơ hay viết truyện với lối văn súc tích, hàm ẩn và đặt biệt chú ý đến cả âm hưởng của câu văn. Tôi thường khắc họa hình tượng mà không hề miêu tả trực tiếp, hay tả thực. Hầu như đó chỉ là những dòng văn cảm nhận và hình dung của tự người viết hoặc từ nhân vật. Chủ đề truyện giống như là thơ, những băn khoăn day dứt về con người, về cuộc sống hiện tại. Cuộc sống đi vào truyện phải được chuyển tải bằng thứ diễn ngôn thơ thì tuyệt hơn nhiều là ngôn ngữ trần trụi. Trong mỗi tác phẩm, nhà văn sẽ tìm thấy được sự ngọt ngào khi nếm được nỗi đau, sự cô độc của chính mình, đó là một liệu pháp hữu hiệu để mình tự trò chuyện được với chính mình, vậy nên việc viết đôi khi không cần độc giả.
Tôi thích kiểu “truyện chớp”, theo cách gọi của nhà văn Đặng Thơ Thơ, cũng là một dạng truyện ngắn, thiên về cảm nhận, những dòng lột tả nội tâm từ ngoại cảnh, với ngôn ngữ tái hiện sinh động, nhiều lớp cảm xúc và thể hiện được ý tưởng độc đáo. Loại truyện này như là dùng ngôn ngữ để chớp lại như một người thợ chụp ảnh, cảm xúc chân thực và tự do xoay hướng, thay đổi góc nhìn để mang lại cảm hứng mới mẻ.
Về thơ, viết mọi thể thơ, cũ - mới, từ lục bát đến hậu hiện đại, từ thất ngôn đến tự do, kể cả thơ tân hình thức tôi đều trải nghiệm. Mỗi bài thơ phải là một sự khám phá ý tưởng, đôi khi như một câu chuyện được kể bằng ngôn ngữ thú vị của thơ, sự ẩn ý trong nó mang lại cho mình một cái thú như trò trẻ con chơi trốn tìm. Và thơ cũng như là một cách sám hối trong bóng tối. Vì vậy, đã dấn mình vào thơ thì khó dứt bỏ mạch cảm xúc của nó, thật tò mò và đầy cám dỗ. Đề tài của thơ tôi viết thì đa dạng, nhưng đa số là đề tài xã hội, con người trong các mối quan hệ nhân sinh.
Nói về thơ thì vô vàn, việc làm thơ như một thú vui chơi về ngôn ngữ, một sự vui chơi đòi hỏi phải có kỹ năng và sự tài hoa. Nhà thơ St. John Perse từng viết: “thi sĩ là người phá vỡ các thói quen của chúng ta”, vì vậy mà sứ mệnh của những nhà thơ là phải dịch chuyển tư duy, tư duy của chính mình và tư duy của xã hội. Nhà thơ là người có thể nhìn thấy sự dịch chuyển của vạn vật mà trong cuộc sống thường nhật chúng ta không chú ý, hoặc chưa nhận ra. Sự tài hoa của nhà thơ là sự hình dung y như thật linh hồn của những hình ảnh quen thuộc từ cuộc sống qua phiên bản bằng ngôn ngữ. Đôi khi, thơ là một câu chuyện kể, hài hước và châm biếm, hoặc là lời đả kích đủ mạnh để tác động vào nhận thức của xã hội. Nói như vậy không phải thơ là để tuyên ngôn, mà thơ là sự tinh lọc ngôn ngữ được diễn đạt bằng sự tài nghệ của nhà thơ. Một nghệ thuật của ngôn ngữ. Tuy nhiên về thơ Việt thì thiên về diễn ngôn hơn là ý tưởng, phần lớn vẫn thiên về ngôn từ vần điệu mà còn thiếu sự khám phá tinh tế, phiêu hốt trong thơ.
Dù sao đi nữa, một người sáng tác không bao giờ muốn định hình, lặp lại khuôn mẫu của mình, phải luôn thay đổi, làm mới thì mới đúng nghĩa của một người sáng tạo.Về văn chương Việt đương đại, trong cái nhìn của mình, so với văn chương của mấy mươi năm trước nó thật “đồ sộ”, nhưng chỉ là “đồ sộ” về lượng, còn chất thì vẫn còn rất ít nếu so với văn chương của thế giới. Tôi thường hay nói đùa rằng, không biết trăm năm sau, văn chương Việt có bằng văn chương thời Phục Hưng của các nước phương Tây không. Nói như vậy không phải là nhìn bi quan, mà là luôn mong muốn văn chương đương đại Việt có những tác phẩm xứng tầm với văn chương thế giới. Và tôi luôn mong, có những nhịp cầu kết nối văn chương Việt với thế giới, phát triển hơn về nghiên cứu, dịch thuật và xuất bản, để bạn bè văn chương thế giới hiểu hơn về văn học, văn hóa, con người Việt Nam.
*
Văn chương Việt hiện nay có nhiều người viết trẻ rất xuất sắc. Bên cạnh đó, tôi còn thấy rằng, người viết trẻ hiện tại rất giàu năng lượng, có lòng đam mê văn chương dư thừa nhưng phần lớn chưa định hình được lối viết của mình. Hoặc phần lớn họ viết như lối phô diễn ngôn từ mà không có hình trạng, ý tưởng. Nhiều lúc đọc họ, tôi lại thấy bóng dáng văn phong của một tác giả nào đó mình đã đọc. Muốn đổi mới văn chương, trước hết phải vun đắp cho mình cái cốt lõi, nền móng Á Đông truyền thống. Bởi văn chương hiện đại mà không có cái gốc Việt của mình thì không hiểu văn ấy viết ra dành cho ai đồng cảm thấu hiểu.
Tôi yêu thích “cổ hủ” với nhiều nhà thơ, nhà văn trong nước, phần lớn họ là những nhà văn nhà thơ thuộc thế hệ xưa. Còn văn học nước ngoài thì thích nhiều. Nhưng nếu chỉ được lựa chọn một, “Chiếc lá cuối cùng - O’Henry”, hẳn là một truyện tôi yêu thích từ nhỏ, và đến nay vẫn chưa quên cái cảm xúc khi lần đầu đọc truyện này. Kết cấu câu chuyện như một cán cân của thần Chết, thật cân xứng đến mức kinh ngạc. Một đêm mùa đông, tuyết gió bão bùng, người họa sĩ già cùng với chiếc thang, cây đèn bão và ngọn lá trường xuân, tất cả đang run rẩy. Đó là một tuyệt tác nghệ thuật mà tôi may mắn đón nhận. Một sự sống đã hồi sinh trong cõi chết, lòng đam mê và tài năng nghệ thuật đã tạo nên sức mạnh diệu kỳ ấy. Ồ không, người nghệ sĩ họ đã đánh đổi cả trái tim để lưu lại niềm tin vĩnh cửu cho thế gian này.
Cuối cùng, người mang lại cảm hứng sáng tác cho tôi, lạ làm sao lại không phải là một tác gia văn chương nào cả, mà chính là nhà bác học Albert Einstein. Thay cho lời kết, tôi xin trích một đoạn ngắn trong bài tiểu luận ông viết tại Berlin năm 1930 khi ông 51 tuổi: “Tình cảnh của những đứa con trái đất chúng ta mới kỳ lạ làm sao! Mỗi chúng ta đến đây như một chuyến viếng thăm ngắn ngủi. Ta không biết để làm gì, nhưng đôi khi ta tin rằng ta cảm nhận được điều đó. Song, nhìn từ cuộc sống thường nhật mà không đi sâu hơn, ta biết rằng ta đến đây vì người khác - trước hết vì những người mà hạnh phúc của riêng ta phụ thuộc hoàn toàn vào nụ cười và sự yên ấm của họ, kế đến là vì bao người không quen mà số phận của họ nối với ta bằng sợi dây của lòng cảm thông”.
N.H.A.T
(TCSH335/01-2017)
ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.
LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.
TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.
PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!
NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.
NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.
HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.
NGUYỄN VĂN THUẤN (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.
PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.
THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.
HÀ ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.
LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.
BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.
HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.
LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.
TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.
HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.
NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.