Ba mươi năm làm vợ làm mẹ, ba mươi năm làm báo viết văn đã đem lại cho nhà văn Y Ban nhiều trải nghiệm.
Nhà văn Y Ban.
Số phận người phụ nữ trong mối quan hệ với gia đình và xã hội luôn là tâm điểm để ngòi bút chị day trở, bất an cùng nhân vật…
PV: Xin chào nhà văn Y Ban. Chúng ta bắt đầu với tập truyện ngắn gần đây nhất của chị, “Có thể có có thể không”. Tập truyện ngắn này tiếp nối chủ đề chị vẫn quan tâm như thế nào?
Nhà văn Y Ban: “Có thể có có thể không” gồm 9 truyện ngắn, tập trung về đề tài gia đình và người phụ nữ đặt trong mối quan hệ đó. Gia đình Việt Nam đang đứng trước nhiều thay đổi. Qua trang viết, tôi muốn tìm hiểu mô hình gia đình truyền thống và mô hình gia đình hiện đại có sự khác biệt ra sao về bản chất, vai trò của người phụ nữ thể hiện thế nào.
Theo một thống kê chưa đầy đủ gần đây thì 25 % các vụ trọng án đều xảy ra trong gia đình. Bạo lực và rất nhiều thứ khác đều tồn tại. Tôi muốn làm một phép thử, xem gia đình có còn là nơi an toàn nhất cho chúng ta hay không.
Từ góc độ người viết, tôi thấy rất nặng nề, không còn tươi mát như những sáng tác trước đó của tôi. Cụ thể là trong 9 truyện ngắn mà có tới 3 nhân vật phải treo cổ tự tử để giải thoát khỏi cuộc sống hiện tại. Nhiều người cũng phản hồi rằng sao lại để các câu chuyện diễn ra quá nặng nề như vậy. Nhưng rõ ràng tôi không còn lựa chọn khác. Tôi muốn đẩy đến tận cùng để mọi người có một cái nhìn về gia đình Việt trong xã hội đầy biến đổi và bất trắc này.
PV: Chị đặt mình vào các nhân vật nữ ra sao?
Nhà văn Y Ban: Tôi cũng là người phụ nữ trong một gia đình nhỏ nằm trong một gia đình lớn là hai bên nội ngoại. Ngày tôi còn nhỏ, bố mẹ đều đi thoát ly, công tác ở bệnh viện. Nhưng tôi lại được sinh ra và lớn lên ở nông thôn, vùng Liễu Đề - Nam Định. Ở đó, văn hóa tâm linh, văn hóa ứng xử trong gia đình và cộng đồng đan xen, dạy tôi đến được một người đàn bà như thế này. Do đó tôi luôn luôn đi giữa lằn ranh, một bên là cuộc sống hiện đại phá cách, một bên là những giáo lý truyền thống.
Truyện ngắn “Có thể có có thể không” là tác phẩm chủ đạo trong tập này được tôi viết bằng trải nghiệm rất đau đớn. Nhân vật chính là người phụ nữ trí thức, một bác sỹ có công việc hái ra tiền, nhưng luôn toàn tâm toàn ý lo cho gia đình, lo giữ gìn gia phong nhà chồng với cả chục đám giỗ trong một năm và bao nhiêu công việc lớn nhỏ, bao nhiêu phép tắc khác. Tự tay cô phải cắt dây treo cổ cho người em chồng vì người này tự tử. Sau đó cũng chính cô phải chịu bao áp lực về mặt tâm linh mà mọi người xung quanh trút lên. Cô cứ đi giữa lằn ranh đó, mệt nhoài giữa mới và cũ. Đến một ngày cô ra nước ngoài, cô mới vỡ ra rằng, à, cuộc sống ở nước ngoài đâu như thế. Cô đến nhà thờ, tiếng chuông nơi vòm mái vọng lại trái tim cô, như muốn nói rằng “Lỗi tại tôi tại tôi mọi bề”.
Trong thời buổi giao thời này, ai còn giữ được những phép tắc xưa? Ai đủ tâm, đủ đức, đủ tài, đủ một niềm tin mãnh liệt? Đấy, gia đình truyền thống của chúng ta trong xã hội hiện đại rắc rối vô cùng. Tôi là người viết, nhưng tôi cũng đặt ra những tình huống mà ai cũng “có thể có có thể không”. Ở đây phản ánh những cách sống cách nhìn khác về một xã hội đang có rất nhiều biến đổi.
![]() |
PV: Người phụ nữ trong tác phẩm của nhà văn Y Ban 30 năm trước, 20 năm trước, 10 năm trước và bây giờ có gì thay đổi không, thưa chị?
Nhà văn Y Ban: Cảm ơn câu hỏi khá thú vị để tôi có thể nhìn lại quãng đường sáng tác của mình. Năm nay cũng đúng 30 năm tôi từ bỏ nghề y để đi vào văn chương. Tháng 10 năm 1989, tôi nhập học khóa 4 trường Viết văn Nguyễn Du. Hai truyện ngắn gây đình đám thời ấy là truyện “Bức thư gửi mẹ Âu Cơ” và “Người đàn bà có ma lực”. Nhân vật chính trong hai tác phẩm đều là phụ nữ. Nhiều người đọc “Bức thư gửi mẹ Âu Cơ” hẳn còn nhớ cô gái có tiếng kêu thống thiết: “Mẹ Âu Cơ sinh được 50 người con trai 50 người con gái. Đất nước anh hùng thiên tai ngoại xâm liên miên, nên những người con trai của mẹ thành anh hùng thi sỹ. Còn 50 người con gái trở thành những người mẹ. Mẹ chỉ chú ý đến anh hùng thi sỹ mà không chú ý đến những người đàn bà. Thế thì bây giờ, con kêu mẹ, mẹ hãy chú ý đến những người đàn bà, vì những người đàn bà sẽ làm mẹ”.
Nhưng bây giờ sáng tác của tôi gần như đau đớn hơn. Ví dụ như trong truyện ngắn “Sách trắng và gia đình”, hình ảnh đầu tiên người mẹ nhìn thấy là con trai mình treo cổ lên quạt trần, mà đó là đứa con trai vô cùng ngoan ngoãn. Đấy, tôi đã đẩy đến tận cùng như thế. Có thể mọi người nói rằng “Y Ban độc ác hơn chăng” khi tôi để nhân vật của tôi trải nghiệm tột đỉnh của nỗi đau.
PV: Đẩy nỗi đau đớn của nhân vật đến tận cùng, và không hề che giấu - Mục đích đó của nhà văn Y Ban để làm gì?
Nhà văn Y Ban: Tôi không muốn giấu giếm nữa. Tôi biết, rất nhiều gia đình đọc cũng thấy mình trong tác phẩm của tôi. Nhưng họ cố đậy điệm, đẹp phô ra xấu xa đậy lại. Ví dụ, kết thúc truyện ngắn “Có thể có có thể không”, tôi đặt câu hỏi: “Tình yêu và niềm tin, liệu có còn tồn tại không, trong một trầm tích dối trá, trường kỳ, lưu cữu, lộng lẫy, huy hoàng như thế này”.
Nói tóm lại, với một người đàn bà cũng gần 60 tuổi rồi, trải nghiệm rồi, gia đình ba mươi năm rồi, và đã từng trải với rất nhiều gia đình nữa, thì tôi không muốn nương nhẹ nữa, câu chữ không nương nhẹ nữa. Chứ còn trước đây, đọc Y Ban, mọi người đều nhận xét rằng, cho dù chi tiết của Y Ban có mạnh mẽ đến đâu thì đằng sau đó luôn là chất nhân văn và luôn có lối mở để các nhân vật thoát ra ngoài. Nhưng bây giờ là cái chết, không còn con đường nào thoát ra cả.
PV: Như vậy thì tôi cảm nhận rằng người phụ nữ ngày hôm nay hình như còn đau đớn hơn tuyệt vọng hơn, chịu nhiều áp lực hơn người phụ nữ trong văn Y Ban ba mươi năm trước?
Nhà văn Y Ban: Quả đúng như vậy. Xã hội của chúng ta đang quá nhiều thay đổi. Trong gia đình cũng thế. Nhịp sống rất gấp gáp, ai có thể cà rầm cà rề làm mười mấy đám giỗ một năm, suốt ngày giỗ, mà có phải là cứ có tiền gọi về ăn là xong đâu. Còn rất nhiều thủ tục đi kèm theo cái bữa ăn đấy.
Trong trang viết của tôi, một mặt tôi bày ra những bất cập của một gia đình truyền thống đang trói buộc người phụ nữ như thế nào, mặt khác tôi cũng có những trang viết về những gia đình mẹ đơn thân, họ phấn đấu cho công việc để có một chỗ đứng, có tiền, để độc lập và nuôi con.
Họ không cần một gia đình đầy đủ nếu gia đình ấy trói buộc họ. Cuộc sống hiện đại, rộng lớn, rất nhiều điều cần khám phá. Họ phải đi ra ngoài để hưởng những điều tốt đẹp ấy, thay vì đến thăm bà mẹ chồng khó tính, chăm sóc một ông chồng gia trưởng. Nhưng tất nhiên, cái gì cũng có hai mặt, và người phụ nữ phải lựa chọn. Ở cả hai góc độ truyền thống và hiện đại, tôi đều ủng hộ, nếu lựa chọn đó đem tới cho họ hạnh phúc, sự nhẹ nhõm.
PV: Chị từng nói rằng thành công của người viết mà người đó lại là phụ nữ thì bao giờ cũng phải trải qua những đau đớn, khó khăn, vất vả, mỗi cuốn sách ra đời đều là sự trả nghiệp. Chị có thể chia sẻ sâu hơn về điều này được không?
Nhà văn Y Ban: Văn chương, văn hóa đọc của nước ta đang “down”. Sách của chúng tôi bán ra không đủ để sống. Cho nên tôi đi làm báo. Sau giờ làm ở cơ quan, tôi vẫn phải chăm sóc con cái, lo toan cho gia đình, phải nấu nướng dọn dẹp. Chồng tôi và các con rất thích tôi nấu ăn, và tôi nấu ăn rất ngon. Nhưng khi nấu ăn, tôi lại mải theo đuổi một bài báo, một truyện ngắn, đôi khi tôi chặt cả vào tay mình, và không ít lần làm cháy cả thức ăn. Nói tóm lại là như vậy. Lúc nào tôi cũng phải nghĩ.
Con cái là gót chân A-sin. Những nhà văn chúng tôi hay bị đánh vào gót chân A-sin của mình. Tôi chỉ lấy một ví dụ nhỏ. Khi con trai tôi khoảng 2 tuổi, ở nhà có bố và người giúp việc. Ngày mai tôi phải hoàn thành một phóng sự điều tra. Tôi xuống tầng dưới để làm việc. Bỗng nghe tiếng con khóc ré lên. Vội vã chạy lên thì thấy mặt con đầm đìa máu. Bố và người giúp việc mải xem ti vi, con đi vào nhà vệ sinh, trượt chân, ngã đập cằm xuống, toác ra, phải khâu mấy mũi.
Rồi có hôm bận việc, con ở nhà ốm sốt đau bụng, mọi người cứ chờ mẹ về. Vì ngày hôm trước cháu bị kiết lỵ, đã đưa vào viện truyền dịch, rồi bác sỹ lại cho về điều trị ngoại trú. Khi cháu sốt, mọi người ở nhà lẽ ra thay tôi đưa cháu đến viện. Nhưng không. Hậu quả là con bị viêm phúc mạc toàn phần. Thay vì mổ nội soi thì phải mổ phanh để rửa toàn bộ ổ bụng. Sau đó, nhiều lần bệnh tái phát.
Đó, nhiều ví dụ lắm, nó đánh đúng vào nơi mềm yếu nhất, đau khổ nhất của người đàn bà. Đôi khi còn có những điều tiếng ác độc, hả hê. Người ta bảo, đấy, trèo cao lắm vào, thích nổi tiếng à. Tiếng bấc tiếng chì, của người ngoài, rồi của người hai bên gia đình, tất cả trút vào mình. Mọi người đâu có hiểu. Khi tôi đặt bút viết truyện ngắn này, tiểu thuyết này, tôi chỉ nghĩ là tôi cần phải viết, tôi mang sứ mệnh viết. Không bao giờ mong đợi rằng mình viết thế này sẽ nổi tiếng đây, được tung hô đây.
PV: Vâng, rất nhiều tâm tư, rất nhiều trải nghiệm của một nhà văn suốt ba mươi năm viết về phụ nữ. Xin chúc nhà văn sức khỏe, tiếp tục dấn thân trong văn chương đồng thời cũng luôn là người phụ nữ của gia đình!.
Theo Anh Thư - VOV
Phan nhân 1972 ( Hồi ức K15 trường Chuyên Phan Bội Châu Nghệ Tĩnh - NXB Hội Nhà văn, tháng 7/2019 ) có lẽ là một trong những cuốn sách thú vị nhất về tuổi học trò mà tôi từng đọc.
Ngày 6-7, tại Hà Nội, buổi giao lưu ra mắt bút ký chính luận “Một thời Đông Bắc” của tác giả Vũ Mão và ký sự tiểu thuyết “Mãi mãi một thời Thiếu sinh quân” của nhà văn Ma Văn Kháng do NXB Kim Đồng tổ chức đã thu hút sự tham gia của đông đảo các nhà văn, nhà phê bình văn học, các cựu học viên trường Thiếu sinh quân Việt Nam.
Ra mắt tập thơ đầu tay năm 2003, đến nay, nhà văn Nguyễn Văn Học đã xuất bản 15 tác phẩm bao gồm tiểu thuyết, truyện ngắn và thơ.
Văn học Nhật Bản đang để lại dấu ấn sâu đậm và mạnh mẽ cả về số lượng lẫn chất lượng. Bên cạnh dòng văn học kinh điển gắn liền với những tác giả có ảnh hưởng trên thế giới, thị trường xuất bản trong nước còn chứng kiến cuộc “đổ bộ” của những tác giả đương đại với số lượng tác phẩm không hề nhỏ.
Tôi vẫn luôn nghĩ rằng, đối với người nghệ sĩ, cô đơn tự xác lập hay cô đơn do ngoại cảnh, đó đều là những đặc ân. Bởi nhờ có cô đơn làm chất xúc tác, cảm thức sáng tạo mới bùng vỡ nơi người nghệ sĩ...” - Nhà văn Đỗ Chu cũng từng bảo: “Nghệ sĩ cô đơn được càng tốt!”.
Từ ba nguồn tư liệu chính sử, dã sử và dân gian, các nhà văn đã có cơ hội bung trổ trí tưởng tượng và khả năng hư cấu để cho ra đời những áng văn chương sinh động, hấp dẫn viết về lịch sử. Hai tiểu thuyết lịch sử mới ra mắt công chúng là “Từ Dụ Thái hậu” của Trần Thùy Mai và “Thiên địa phong trần” của Hà Thủy Nguyên.
Nhân kỉ niệm 62 năm thành lập (17/6/1957 – 17/6/2019), Nhà xuất bản Kim Đồng ra mắt ấn bản mới tập truyện Dưới chân Cầu Mây của nhà văn Nguyên Hồng. Tập truyện gồm ba truyện đặc sắc dành cho thiếu nhi: Đôi chim tan lạc, Dưới chân Cầu Mây vàCháu gái người mãi võ họ Hoa.
NXB Hà Nội và Thư viện Hà Nội tổ chức lễ ra mắt cuốn sách “Thời cuộc và Văn hóa” của nhà báo Hồ Quang Lợi, Phó Chủ tịch Thường trực Hội nhà báo Việt Nam
Nhà thơ Hữu Thỉnh đánh giá Huy Cận là người đem tâm nguyện “làm bục nhảy đưa sự sống lên cao”. Nhiều nhà thơ, nhà nghiên cứu có dịp quần tụ nhớ về hồn thơ Huy Cận dịp 100 năm ngày sinh của ông.
“Ba năm tồn tại. Thời gian không dài. Nhưng kỷ niệm một thời niên thiếu tươi đẹp hào hùng trong gian khổ làm sao có thể quên!”. Sau hơn 70 năm, khi những mảnh ký ức bắt đầu mờ nhòa, nhà văn Ma Văn Kháng đã “gạn lấy chút sức lực còn lại”, “rờ rẫm nhớ lại những gì đã trải qua”, để tái hiện chân dung thế hệ “măng non cách mạng” giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp.
Nhà văn Trần Thùy Mai vừa ra mắt bộ tiểu thuyết lịch sử “Từ Dụ thái hậu” sau một thời gian dài im tiếng. Điều thú vị, cuốn sách đề cập đến lịch sử nhưng được tác giả viết bằng văn phong thuần Việt, với ngôn ngữ nhuần nhị để thu hút độc giả trẻ.
Có thể nói, tiểu thuyết gia hiện đại đầu tiên của văn học Việt Nam chính là nhà văn Hồ Biểu Chánh. Với kho tàng đồ sộ 64 cuốn tiểu thuyết, ông được mệnh danh là “người kể chuyện đời” đầy lôi cuốn và có cá tính.
Giữ một vị trí khiêm tốn trong đời sống văn chương, nhưng thể loại phi hư cấu thời gian qua vẫn đều đặn đến với độc giả. Thậm chí, nhiều tác phẩm tạo được tiếng vang lớn, được in hàng chục ngàn bản. Chỉ có điều, trong những bảng vàng văn chương trong nước, hiếm khi những tác phẩm thuộc thể loại phi hư cấu được xướng tên.
Nhân dịp kỷ niệm 65 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 – 7/5/2019), NXB Kim Đồng vừa cho ra mắt tập thơ “Điện Biên chiến thắng, Điện Biên thơ” của Đại tá, nhà thơ Ngô Vĩnh Bình tuyển chọn và giới thiệu.
Sau 65 năm, những kinh nghiệm lịch sử, bài học quý giá từ chiến thắng Điện Biên Phủ vẫn được học giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Không chỉ là góc nhìn riêng của mỗi bên, việc hợp tác để khai thác khối tư liệu, tài liệu lưu trữ - di sản chung của hai dân tộc Pháp - Việt nhằm có thêm sự đối chứng, từ đó làm rõ hơn lịch sử.
“ĐIỆN BIÊN PHỦ: 13/3-07/5/1954” là cuốn sách chuyên khảo của Tiến sĩ, Đại úy người Pháp Ivan Cadeau. Cuốn sách cung cấp các tài liệu lưu trữ của Pháp về sự kiện Điện Biên Phủ và chiến tranh tại Đông Dương, trong đó có nhiều tài liệu chưa từng công bố tại Việt Nam.
Ngày 30/4/1975 mãi là một ký ức tồn tại sâu thẳm trong tâm trí của những người đã trực tiếp chứng kiến. Đặc biệt là nhà báo, nhà văn Trần Mai Hạnh, người đã dành gần như cả cuộc đời cầm bút của mình để văn bản hóa lại những ký ức lịch sử về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước một thời của dân tộc Việt Nam.
Với sự nhân từ, đức độ, Từ Dụ thái hậu được dân gian lưu truyền là người phụ nữ quyền lực có sức ảnh hưởng to lớn dưới triều nhà Nguyễn. Từ cảm hứng ấy, nhà văn xứ Huế Trần Thùy Mai đã viết Từ Dụ thái hậu - một trường thiên tiểu thuyết gồm 69 chương, có thể xem là tiểu thuyết lịch sử dạng “cung đấu” hiếm hoi của văn học đương đại.
Sáng ngày 22/4/2019, tại thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành buổi toạ đàm khoa học, giới thiệu công trình Nghiên cứu, lí luận, phê bình văn học ở Nam Bộ thời kì 1865-1954.
Sách của nhà phê bình khơi gợi tình yêu cuộc sống qua những vẻ đẹp giản dị, nhân văn.