Nhà văn Phạm Tường Hạnh - nhân chứng của một thời oanh liệt

15:45 17/07/2020

Trong lòng tôi, nhà văn Phạm Tường Hạnh là người anh giàu tình nghĩa, sống sôi động, bộc trực, thẳng thắn, nhưng với đồng nghiệp thì luôn biết lắng nghe và tôn trọng. Hôm nay, kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Phạm Tường Hạnh, xin có đôi dòng...

Nhà văn Phạm Tường Hạnh (trái) và nhà văn Triệu Xuân

1. Nhà văn Phạm Tường Hạnh tên khai sinh là Phạm Trọng Hân, sinh ngày 17-7-1920, quê gốc Vân Trường, Tiền Hải, Thái Bình. Ông vô miền Nam khá sớm, tham gia Cách mạng Tháng Tám 1945 tại Sài Gòn, sau đó, làm việc tại Ty Thông tin tuyên truyền tỉnh Thủ Dầu Một (nay là Bình Dương). 

Chín năm kháng chiến chống Pháp, chàng trai cao lớn quê miền biển Thái Bình đã lăn lộn khắp các chiến trường Nam bộ. Năm 1947, ông làm báo Vệ Quốc quân, Quân khu 7. Năm 1952, làm báo Vệ Quốc quân, Quân khu Tây Nam bộ. Sau Hiệp định Genève, ông tập kết ra Bắc, làm biên tập viên Ban Văn nghệ Đài Tiếng nói Việt Nam. Năm 1958, ông vào Vĩnh Linh, Quảng Trị làm biên tập của Báo Thống Nhất. Bốn năm thường trú ở đây, ông đã đón tiếp, tận tình giúp đỡ nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà báo vào thực tế tại giới tuyến, trong đó có nhà văn Nguyễn Tuân mà ông quý trọng, kính phục, coi như người thầy của mình.

Năm 1962, ông trở lại làm việc ở Đài Tiếng nói Việt Nam. Trong năm này, Nhà xuất bản Văn học xuất bản tác phẩm đầu tay của ông, tập truyện ngắn Vợ chồng Bảy Thẹo. Tôi đọc Vợ chồng Bảy Thẹo năm 1969, khi đang là sinh viên năm thứ hai Khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp Hà Nội. Ấn tượng của tôi khi đọc văn Phạm Tường Hạnh là ông viết truyện ngắn mà như không cần hư cấu. Truyện ngắn của ông thật như cuộc đời, là truyện ngắn nhưng gọi là ký sự cũng không sai.

Ngồn ngộn trong tác phẩm Vợ chồng Bảy Thẹo là chất liệu đời thường được viết bằng tấm lòng sôi sục yêu nước, cách mạng, căm thù giặc ngoại xâm. Năm 1966, Phạm Tường Hạnh về làm việc ở Tổ sáng tác Hội Nhà văn Việt Nam. Sau ngày đất nước thống nhất, ông sống tại TPHCM, làm biên tập viên tuần báo Văn nghệ Giải phóng cho tới ngày về hưu năm 1979.

Nhiều bạn đồng nghiệp trân trọng gọi Phạm Tường Hạnh là con ong cần cù, dâng mật ngọt cho đời. Sau Vợ chồng Bảy Thẹo, ông cho ra đời các tác phẩm: Búp bê Đức sang Việt Nam (tập truyện thiếu nhi, NXB Kim Đồng), Buổi sáng trên bến Nhà Rồng (tập truyện thiếu nhi, NXB Kim Đồng), Ngọn lửa Krông Jung (kịch bản phim truyện, Hãng phim Giải Phóng), Giọt mật cho đời (ký, NXB Văn hóa Thông tin), Đất Sài Gòn (truyện ngắn và ký, NXB Văn hóa Thông tin), Bức thư tìm cha (truyện ngắn và ký, NXB Văn hóa Thông tin), Muôn nẻo đường đời (truyện ngắn và ký, NXB Văn hóa Thông tin), Trong vắt trời xanh (truyện ngắn và ký, NXB Văn hóa Thông tin), Cất cánh (truyện ngắn và ký, NXB Văn hóa Thông tin), Một cuộc đời nghệ thuật (ký, NXB Thành phố Hồ Chí Minh), Anh hùng Phạm Ngọc Thảo (tiểu thuyết ký sự, NXB Công an nhân dân), Tuyển tập Phạm Tường Hạnh (2000, NXB Văn học), Nhân chứng (ký, 2005, NXB Văn nghệ TPHCM).
 

Nhà văn Phạm Tường Hạnh được Nhà nước trao tặng: Huân chương Chống Mỹ cứu nước hạng nhất, Huân chương Kháng chiến hạng ba, Huân chương Chiến thắng hạng ba, Huy hiệu Thành đồng Tổ quốc, Huân chương Độc lập hạng ba, 2 giải thưởng của Ủy ban Trung ương Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam… NXB Văn học vừa in lần thứ hai Tuyển tập Phạm Tường Hạnh, có bổ sung nhiều tác phẩm mới, sách dày 1130 trang.


2. Có thời gian gần hai chục năm, Phạm Tường Hạnh ít viết văn, chuyên viết báo. Rất lạ là những năm 1993-2005, ông viết liên tục, in sách liên tục. Tất niên năm 2005, trong tiệc rượu của Hội Nhà văn TPHCM, khi ký tặng tôi tác phẩm Nhân chứng vừa ra lò, ông nói: “Mình không chuyên viết tiểu thuyết như Triệu Xuân, mình chỉ mê viết ký. Mình sung sướng và tự hào là nhân chứng của một thời oanh liệt của dân tộc, mình say mê ghi chép lại cuộc đời như là sự thôi thúc mãnh liệt từ cõi lòng”. Phạm Tường Hạnh và những nhà văn, nhà báo cùng thời với ông đúng là nhân chứng sống của thời mình!

Cả đời viết văn, Phạm Tường Hạnh tuy viết nhiều thể loại, nhưng ông sở trường với ký. Những tác phẩm viết bằng thể ký của ông có giá trị lịch sử, giá trị nhân văn. Ký sự Vua Phật Lưu Công Danh đi kháng chiến là một ví dụ. Ký sự này in lần đầu trên báo Nhân Dân và Sài Gòn Giải Phóng, đã thành sự kiện xôn xao dư luận xã hội. Chất liệu đời thực, sự nghiệp của Phật sống Lưu Công Danh ly kỳ, hấp dẫn. Ông là một trong những tấm gương sáng, hết lòng vì độc lập tự do cho dân tộc. Từ chất liệu quý giá ấy, Phạm Tường Hạnh đã thổi vào đó tất cả tâm sự, nhiệt huyết của ông với dân với nước.

Viết văn, Phạm Tường Hạnh luôn viết bằng cả trái tim mình, với tư cách là người trong cuộc. Những tập truyện, ký của Phạm Tường Hạnh có giá trị nhân văn sâu là bởi vậy. Sau khi đọc Vua Phật Lưu Công Danh đi kháng chiến, tôi đã về Kiên Giang tổ chức bản thảo, được Hội Văn nghệ Kiên Giang nhiệt tình giúp đỡ, NXB Văn học xuất bản tập truyện ký Phật sống Lưu Công Danh (2004), được đông đảo bạn đọc văn học trong và ngoài nước nồng nhiệt đón nhận.

Càng cao tuổi, Phạm Tường Hạnh viết càng khỏe. Có lẽ bởi quá trình chuẩn bị tư liệu đã hoàn tất, cảm xúc đã chín, không viết ra thì không chịu nổi. Đọc những tác phẩm xuất bản sau này, tôi mừng cho ông, bởi bố cục chặt chẽ hơn, câu văn ngắn gọn hơn, súc tích hơn, kiệm lời mà ý tứ sâu rộng, hình ảnh được sử dụng nhiều hơn khi diễn đạt. Chân dung bè bạn, đồng nghiệp, các nghệ sĩ và cả chính khách, ông viết sinh động, nhờ hành văn giản dị, lối kể chuyện chân thành. Quan trọng hơn, nhờ chất liệu thật mà chỉ riêng tác giả mới có. Lấp lánh trong những trang viết ấy là tấm lòng, tâm sự, là tình cảm mãnh liệt của ông với bạn bè, với nhân dân, với cuộc đời. Ông viết về cảnh, về người, về chuyện đã qua từ lâu mà rung động, day dứt, mà đau xót, thiết tha và ngời sáng niềm tin yêu, tự hào! 

Tôi trích một đoạn của nhà văn Anh Đức viết về ông để kết thúc bài viết: “Ông có một tuổi thanh niên sôi nổi trong hào khí Cách mạng Tháng Tám, rồi sau đó là cuộc chống Pháp, tiếp đến chống Mỹ. Hơn nửa thế kỷ tham gia cách mạng, trải qua các giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc với bao gian khổ, đau thương và tự hào; nhờ được tắm mình trong dòng chảy vĩ đại, hòa mình và chứng kiến bao sự kiện và bao con người mà ông từng chiến đấu chung, cùng chia ngọt sẻ bùi, ông đã ghi lại - dưới thể loại bút ký lịch sử - về những sự kiện và những con người ấy. Thế hệ cùng lứa tuổi với tác giả sẽ nhìn thấy hình ảnh mình trong đó. Các thế hệ sau thiết tưởng cần được biết, được thấy - dù chỉ qua ngôn từ - cha anh mình một thời gian truân cứu nước; để biết quý, biết trọng những gì mình có được từ sau 1975, một thời hòa bình được đánh đổi bằng rất nhiều xương máu”.

Theo Nhà văn Triệu Xuân - SGGP

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Giải thưởng văn học Sông Mekong lần thứ 11 sẽ diễn ra tại thủ đô Phnompenh, Campuchia vào cuối năm 2020. Hai tác giả Việt Nam đoạt Giải thưởng năm nay là tác giả Trần Nhuận Minh với tác phẩm sách thơ Qua sóng Trường Giang và tác giả Trần Ngọc Phú với tác phẩm Từ Biên giới Tây Nam đến đất Chùa Tháp.

  • Trong dịp kỷ niệm 100 năm Ngày sinh nhà thơ Tố Hữu (4-10-1920 - 4-10-2020), NXB Hội Nhà văn cho ra mắt bạn đọc tập sách dày dặn, công phu và nghĩa tình Tố Hữu - Một đường thơ, một đường đời.

  • Nhà thơ Vũ Quần Phương cho rằng, người cuối cùng của phong trào Thơ mới vừa từ giã bạn đọc ở tuổi 100 – thi sĩ Nguyễn Xuân Sanh - là người “không để thơ… ngủ quên trên thành công của dòng lãng mạn trước đó”.

  • Đoàn Ngọc Thu nói rằng chị thích thơ của mình ngày xưa hơn. Những xúc cảm ấy vẫn như còn váng vất trong những vần thơ trong tập “Sau bão” (NXB Hội Nhà văn, 2020).

  • Ra đời cách đây 25 năm, bộ truyện “Kính Vạn Hoa” của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh có ý nghĩa đặc biệt, khơi luồng gió mới cho văn học thiếu nhi Việt Nam thời kỳ đổi mới, mang đến món ăn tinh thần lý thú bổ ích. Tuy nhiên, quá trình thực hiện bộ sách cũng thử thách những người chọn lựa bước trên con đường dài sáng tạo không ngừng nghỉ.

  • Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh sinh năm 1920 tại Ðà Lạt, nguyên quán Quảng Bình, lúc nhỏ theo học ở Trường Quốc học Quy Nhơn (cũ), sau đó chuyển ra Hà Nội.

  • Sáng 22/11/2020, Nhà thơ Trần Đăng Khoa đã thông báo chia sẻ tin buồn cho các nhà thơ và những người yêu thơ đó là nhà thơ tiền bối nổi tiếng Nguyễn Xuân Sanh vừa qua đời.

  • NXB Văn học giới thiệu “Nghề vương bụi phấn”, tác phẩm thứ ba của tác giả Nguyễn Huy Du, gồm những câu chuyện về tình thầy trò với văn phong mộc mạc, giản dị nhưng lôi cuốn, nhân Ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11.

  • Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh sinh ngày 16 tháng 11 năm 1920, quê gốc thuộc huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Ông cũng là một trong những hội viên tiền phong tham gia xây dựng Hội Nhà văn Việt Nam. Năm nay ông tròn 100 tuổi. Hội Nhà văn Việt Nam vừa tổ chức chúc thọ nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh tại trụ sở số 9, Nguyễn Đình Chiểu hôm 9/11/2020 với sự tham gia của lãnh đạo Hội, các nhà văn nhà thơ và đại diện gia đình của ông.

  • “Nẻo vào văn xuôi đương đại Việt Nam” là tập tiểu luận - phê bình của TS Bùi Như Hải, do NXB Văn học ấn hành tháng 9-2020.

  • Sáng 5-11, Viện Văn học Việt Nam đã tổ chức toạ đàm nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh PGS – nhà nghiên cứu văn học Vũ Đức Phúc. Đây là một dịp để các thế hệ Viện Văn học ngồi lại cùng ôn cố và “soi chiếu cho tương lai” – như lời PGS,TS Nguyễn Đăng Điệp, Viện trưởng Viện Văn học nhận định.

  • Bằng sự lao động miệt mài và nghiêm túc, nhà văn Lê Văn Nghĩa thường gửi đến độc giả những đầu sách độc đáo, nhiều cuốn trong số đó có giá trị như một “bảo tàng ký ức” của không chỉ riêng tác giả.

  • Thạch Lam (1910 - 1942) là đại biểu xuất sắc của văn xuôi lãng mạn Việt Nam thời kì 1930 - 1945. Văn Thạch Lam đọng nhiều suy nghiệm, nó là cái kết tinh của một tâm hồn nhạy cảm và từng trải về sự đời (Nguyễn Tuân).

  • Sáng ngày 20/10/2020, Hội Nhà văn Việt Nam đã tổ chức kỉ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ Tố Hữu (4/10/1920 – 4/10/2020).

  • Đã có nhiều nhà văn viết về Hà Nội - Thủ đô yêu dấu - như Thạch Lam, Vũ Bằng, Tô Hoài, Nguyễn Khải… Nhưng tập truyện ký “Hà Nội và tôi” (NXB Hội Nhà văn) gần 300 trang với hơn 20 tác phẩm của nhà văn Vũ Ngọc Tiến, một người Hà Nội gốc, đã cho ta biết thêm một phần chân dung về những con người của đất Tràng An thanh lịch.

  • Tháng 10, nhân kỷ niệm 66 năm ngày Giải phóng Thủ đô, Nhã Nam giới thiệu tới bạn đọc một tác phẩm mới của nhà văn Nguyễn Trương Quý, cây viết vốn quen thuộc với những tản văn về các góc nhỏ của Hà Nội: “”Hà Nội bảo thế là thường”.

  • Rất lâu rồi, không có luận văn, luận án nào về thơ Tố Hữu. Cũng lâu lắm rồi, sau Hà Minh Đức, Trần Đình Sử… rất ít người viết về thơ ông. Tôi cũng chưa bao giờ viết về thơ Tố Hữu khi ông còn sống. Nhưng với chúng tôi, thơ Tố Hữu là nguồn suối tươi mát, mạch ngầm sống động trong đời sống tinh thần. "Chúng tôi" ở đây là thế hệ những người ở lứa tuổi 70. Trong quãng thời gian 70 năm của một đời người thì ít nhất có 30 năm (1954 - 1975) chúng tôi đã được sống với thơ Tố Hữu.

  • Bằng kiến thức của một chuyên gia đầu ngành và sự trân trọng quá khứ một đi không trở lại, ông đã chỉ ra giá trị của cuốn sách và ý nghĩa của việc làm sống lại những kí ức Hà Nội rất đặc biệt thông qua cuốn sách này...

  • Có một bộ phim tôi không thực nhớ nội dung, một bộ phim của Woody Allen mang tên "Đóa hồng tím ở Cairo", câu chuyện mang máng mà tôi còn nhớ, đó là một người phụ nữ thất bại trong tất cả mọi khía cạnh cuộc đời, rồi cô vào một rạp chiếu bóng, xem một bộ phim, và trong giây phút ấy, cô quên béng mất cuộc đời mình, cô òa khóc, không phải vì mình, mà vì những nhân vật trong phim.

  • Năm 1941, với việc xuất bản Dế mèn phiêu lưu ký ở tuổi 20 (bản in đầu tiên có nhan đề Con dế mèn), Tô Hoài có được hai vinh dự lớn trong nghề cầm bút: Trở thành người mở đầu thể loại truyện đồng thoại; Tác phẩm mở đầu lại là đỉnh cao của thể loại, đồng thời là một trong những áng văn học thiếu nhi nổi tiếng thế giới nhất của Việt Nam.