Nhắc tới nhà văn Nguyễn Văn Thọ, bạn văn thường nhớ tới tiểu thuyết “Quyên”; các tập truyện ngắn: “Gió lạnh”, “Vàng xưa”, “Hương mĩ nhân”, “Vườn mộng”; các tập bút ký và tản văn: “Đào ở xứ người”, “Đầu ngọn sóng”… Ông còn sáng tác thơ, vẽ và viết kịch bản phim… Nhớ về thời hoa niên nhiều ước vọng, ánh mắt ông lấp lánh niềm vui.
Anh lính trẻ Nguyễn Văn Thọ (năm 1965) và nhà văn Nguyễn Văn Thọ (năm 2000)
Như một… phụ nữ!
Hồi trẻ, Nguyễn Văn Thọ luôn bị liệt vào hàng học sinh cá biệt. Nhưng chỉ là nghịch ngợm chứ không hư đốn. Nghịch là anh thích trêu chọc, thậm chí đánh nhau với trẻ khác đường phố. Trong lớp thì trêu ghẹo bạn nữ, nói chuyện, trả lời ngược lại với thầy cô. Thầy giáo chủ nhiệm lớp 9 thường hỏi cả lớp thích làm nghề gì khi lớn lên. Đa số các bạn đều chọn nghề kỹ sư, bác sĩ, bác học. Còn anh chàng Thọ lại tự tin chia sẻ rằng: “Em mơ ước có thể sáng chế ra cái máy xử lý rác thải sao cho thuận tiện nhất...”. Cả lớp được trận cười nghiêng ngả.
Cùng lứa với Nguyễn Văn Thọ, có nhiều bạn thích chép tay những bài thơ hay, đặc biệt là thơ tình của các thi nhân. Riêng anh chàng “cá biệt” này thì không thích. Nguyễn Văn Thọ ngay từ nhỏ không có thói quen ghi nhật ký, đặc biệt là không bao giờ chép thơ. Bởi anh cho rằng điều này rất… sến: “Con người luôn phải hoạt động để hoạt bát, nhanh nhẹn. Các chị của tôi đi học xa nhà, nên ngay từ thời niên thiếu tôi đã phải làm rất nhiều việc trong gia đình như nấu cơm từ bảy, tám tuổi. Đến 11, 12 tuổi là phải gánh nước, lau nhà, tôi giống như một người… phụ nữ trong gia đình. Chính vì thế cho nên tôi bận, ngoài ra còn phải học hành nữa. Bởi vì gia đình khó khăn nên cậu tôi thường dọa nếu trượt lớp nào mà đỗ lại là không được đi học tiếp. Tôi luôn quyết tâm là phải học, ít ra cũng phải được bằng các chị, hết cấp III rồi vào đại học. May mắn là cũng học hết cấp III nhưng ngay trong năm đó tôi đăng ký vào quân ngũ thực hiện nghĩa vụ của người thanh niên khi đất nước chiến tranh…”.
“Chẳng át nổi hương Xuân”
Chàng thanh niên Nguyễn Văn Thọ nhập ngũ khi chưa đầy 17 tuổi. 11 năm chiến đấu ở khắp các chiến trường, anh ở trong vùng chất độc da cam mà may mắn lại không bị ảnh hưởng.
Chàng tân binh Nguyễn Văn Thọ không bao giờ quên cái Tết trước trận đánh năm 1975. Trung đoàn được lệnh ăn Tết trước vì dự kiến sẽ đánh vào dịp Tết Nguyên đán, có thể còn đánh qua cả Tết. Khoảng 60, 70 người được tiêu chuẩn chỉ 1 kg thịt hộp, nấu loãng với rau rừng trong nồi 50 lít nước. Vì thế anh nào vớ được miếng bì nổi lên thì rất sung sướng.
Càng gần Tết, nỗi nhớ nhà càng ghê gớm, cồn cào. Anh nhớ thương cái chợ Giời của mình, nhớ thương từng góc phố, từng viên đá, từng chỗ sứt bờ cửa trong gia đình. Nhất là nhớ mẹ da diết. Nhớ khuôn mặt, ánh mắt của mẹ dõi theo ngày lên tàu. Hôm anh về nghỉ phép trước khi vào chiến trường B, thấy tóc mẹ rất nhiều sợi bạc. Anh tâm sự: “Vào Tết năm 1971, khi ấy bố tôi tròn 60 tuổi. Thời khắc Giao thừa tôi ngồi trong một góc khuất làm thơ tặng bố. Bài thơ có nhan đề “Thư gửi cha”. Bài này dài và tôi xin đọc một đoạn:
“Cậu ơi!
Đêm nay giặc lại đánh
Đêm Giao thừa nhiều loạt bom nổ chậm
Nhưng Xuân vẫn về trong hang đầm ấm
Mở Xuân ngàn tiếng súng cùng reo
Con của cha cũng bắn chào Xuân
Một loạt cho Xuân, một loạt cho cha tuổi vừa Sáu chục
Bọn nó bắn rền rung liên tục
Vọng hang này thôi chẳng át nổi hương Xuân…
Đêm nay giặc lại đánh
Giặc lại bắn…”.
Ngay sau Tết Nguyên đán, Trung đoàn của Nguyễn Văn Thọ bước vào chiến dịch Lam Sơn. Đó là một trận đánh khốc liệt. Nhưng những người lính mang tâm hồn thi ca thì vẫn làm thơ ngay trong khói lửa, đạn bom. Nhà văn nhớ lại: “Đồng đội của tôi thích nhất những buổi chiều xiên xiên nắng, cả bọn ngồi đọc thơ của anh Phạm Tiến Duật: “Cái vết thương xoàng mà đi viện/Hàng còn chờ đó, tiếng xe reo/Nằm ngửa nhớ trăng, nằm nghiêng nhớ bến/Nôn nao ngồi dậy nhớ lưng đèo…”.
Cuộc sống sinh hoạt của người chiến sĩ gắn liền với thiên nhiên. Nơi ngủ là chiếc võng vắt qua hai thân cây giữa rừng. Khi không có cây thì lấy đất làm giường, lấy gió trăng, mây trời làm chiếu… Nhà văn bồi hồi tâm sự: “Trong khốc liệt của chiến tranh, chính sức trẻ, ý chí kiên cường không ngại khó ngại khổ, chẳng tiếc máu xương và tuổi thanh xuân, thế hệ của chúng tôi đã sống trọn vẹn vì lý tưởng Độc lập của dân tộc…”.
(Đọc Áp tai vào đất, Lê Quang Trạng, Nxb Hội Nhà văn, 2017)
Nhà văn Nguyễn Thành Nhân (ảnh) được biết đến với tiểu thuyết Mùa xa nhà viết về những tháng năm anh làm nghĩa vụ quốc tế trên đất bạn Campuchia. Đây là tác phẩm đầu tay tạo được tiếng vang giúp anh tiến sâu hơn với nghề viết.
Chiều ngày 12/4, tại Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam diễn ra tọa đàm giới thiệu hai cuốn tiểu thuyết “Phố Academy” ( tác giả Mary Costello, Hà Nguyễn dịch) và “Tuần lễ náu mình” (tác giả Maeve Binchy, Nguyễn Nhật Tuấn dịch) do Nhà xuất bản Phụ nữ cùng sự tài trợ của Đại sứ quán Ireland.
Tập sách 'Mỗi người một chỗ ngồi' mang phong vị văn chương "lạnh, sắc và tinh tế" của cây bút truyện ngắn tiêu biểu một thời.
Theo nhà nghiên cứu Trần Nhật Vy, đó là thời kỳ đầu của văn chương Sài Gòn gắn liền với thuở bình minh của báo chí chữ Quốc ngữ. Trần Nhật Vy đã tìm thấy nhiều tác phẩm có giá trị văn học sử trong quá trình nghiên cứu báo chí chữ Quốc ngữ cuối thế kỷ 19.
Nhà văn Vũ Hùng là tác giả của 40 đầu sách, trong đó có 2 tác phẩm được giải thường niên của Hội Nhà văn Việt Nam: truyện đồng thoại Sao Sao (1982) truyện ký Sống giữa bầy voi (1986).
Sau một gian nghiên cứu tìm tòi thể nghiệm, nhà văn Nguyên Hương vừa “trình làng” bộ ba “Tớ muốn đi cùng trời cuối đất” dành cho lứa tuổi học trò với cách viết mới mẻ, sử dụng yếu tố kì ảo khiến tác phẩm thêm phần cuốn hút.
“Bãi vàng và những chuyện tình nho nhỏ” bao gồm 15 truyện ngắn của nhà văn Ma Văn Kháng viết về tình yêu và thân phận người phụ nữ trong những cuộc tình trái ngang. Dưới ngòi bút của ông, tình yêu được miêu tả là “thuộc tính của những kẻ mang danh tính là con người,” (trích truyện ngắn “Bãi vàng”).
Truyện Linda Lê phản ánh thời biến động khó quên của một xứ sở, song hành hồi ức của một người đàn bà tâm thần, sống cô độc ở Paris.
Sáng nay (27/2), chuỗi sự kiện Ngày Thơ Việt Nam lần thứ XVI chính thức khởi động với hội thảo về thơ với chủ đề “Những vấn đề của thơ Việt Nam hiện nay” tại Hà Nội.
Ba cuốn sách của cố nhà văn Tô Hoài (“Giữ gìn 36 phố phường,” “Những ký ức không chịu ngủ yên” và “Người con gái xóm Cung”) chính thức ra mắt độc giả vào trong dịp đầu năm 2018.
“Giải thưởng sự nghiệp văn học” - một giải thưởng mới của Hội Nhà văn Việt Nam đã được trao cho nhà văn Vũ Hùng – cây viết đã bền bỉ dành cả cuộc đời mình để viết về trẻ em, muông thú, thiên nhiên.
Liên tiếp hai năm qua, Ma Văn Kháng trình làng 2 cuốn tiểu thuyết mới và mới đây một NXB cùng lúc phát hành 8 cuốn cả tiểu thuyết và truyện ngắn của cây bút có sức viết bền bỉ hàng hiếm ở Việt Nam. Nhưng Ma Văn Kháng liệu có còn phù hợp với đọc giả trẻ hôm nay, theo nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên vẫn là “câu hỏi khó”. Còn nhà văn Nguyễn Khánh Tình nói “đọc Ma Văn Kháng, tâm hồn tôi dịu đi”.
Đầu năm 2018, nhiều tựa sách văn học nước ngoài thú vị được các nhà xuất bản trong nước giới thiệu tới độc giả Việt Nam.
Sáng 25/1, Hội Nhà văn Việt Nam đã chính thức công bố danh sách Giải thưởng Văn học Hội Nhà văn Việt Nam năm 2017.
Với 66 bài viết được chia làm 3 phần, cuốn sách “Như mây thong dong” của tác giả Lưu Đình Long do NXB Văn hóa - Văn nghệ và công ty Saigonbooks ấn hành là một trong những thông điệp đẹp và tình yêu và người trẻ hiện nay.
Tối 5/1, tọa đàm “Văn chương nói với ta điều gì về kẻ khác” được Bảo tàng thấu cảm và Khóa học mùa thu và phát triển (ASOD) đồng tổ chức nhằm hướng tới cái nhìn đa chiều và khoa học xung quanh vấn đề thấu cảm nói chung và vấn đề thấu cảm trong văn chương nói riêng.
Không hẹn mà gặp, gần như cùng một lúc NXB Kim Đồng cho ra mắt hai tập chân dung văn học “Đi tìm giấc mơ” của tác giả Trần Hoàng Thiên Kim và “Như cánh chim trong mắt của chân trời” của Văn Thành Lê.
Được viết từ trước năm 1975, bộ 3 tác phẩm truyện dài gồm “Áo tím qua đường”, “Mối tình như sương khói” và “Còn những bóng mưa tan” của nhà văn Từ Kế Tường về tình yêu tuổi mới lớn từng được đông đảo các thế hệ độc giả đón nhận.
Cảm nhận đầu tiên khi đọc “Văn nghệ Hà Nội những năm 1947 – 1954”, hồi ức - biên khảo của Lê Văn Ba (NXB Hội Nhà văn, 2017) là cuốn sách ngồn ngộn tư liệu và hấp dẫn. Lê Văn Ba có đủ điều kiện, hoàn cảnh và tư cách để làm việc này. Ông sống, sáng tác và hoạt động bí mật trong Hà Nội tạm chiếm, từng bị địch bắt và giam ở Nhà tù Hỏa Lò (hòa bình lập lại năm 1954 ông tròn 20 tuổi).