Nhà văn Ma Văn Kháng trăn trở với “Cõi nhân gian”

15:36 17/07/2020

Đến nay, nhà văn Ma Văn Kháng đã cho ra đời hơn 20 tiểu thuyết, gần 200 truyện ngắn, chủ yếu lấy cảm hứng từ sử thi và thế sự đời tư, đề cập phần nhiều đến cuộc sống và con người vùng Tây Bắc.

Nhà văn Ma Văn Kháng.

Ở vào tuổi "xưa nay hiếm" - tuổi 80, ông vẫn miệt mài sáng tạo như người nông dân cần mẫn trên cánh đồng văn chương để cuối năm 2019 giới thiệu đến bạn đọc tập truyện ngắn "Người khách kỳ dị".

Dòng chảy bất tận

Tập truyện "Người khách kỳ dị" gồm 16 truyện ngắn do NXB Phụ nữ ấn hành. Tập truyện dày 260 trang này tiếp tục là dòng chảy cho cảm hứng bất tận của Ma Văn Kháng về những đề tài vốn đã trở thành thế mạnh trong bút lực của ông.

Có thể thấy, để sáng tạo nên những tác phẩm mang hơi thở của cuộc sống hiện đại nhưng vẫn chứa đựng những nét huyền bí về phong tục, quan niệm tâm linh, sự linh thiêng của con người nơi miền núi Tây Bắc heo hút trước hết là nhờ những năm tháng Ma Văn Kháng gắn bó với tỉnh miền núi Lào Cai. 

Ma Văn Kháng đã từng là một thanh niên tràn đầy tình yêu lý tưởng, xung phong lên miền núi công tác. Gần 20 năm sống ở Lào Cai, ông có điều kiện tiếp xúc, gần gũi, thấu hiểu cuộc sống và con người ở mảnh đất này. Quãng thời gian đó đã giúp ông tích lũy một vốn sống dày dặn, làm tiền đề cho sáng tác của mình, góp phần làm nên những truyện ngắn chân thực, sinh động của một ngòi bút giàu trải nghiệm và có tầm nhìn sâu rộng trước hiện thực.

"Người khách kỳ dị" không thuần túy kể chuyện miền núi. Không gian trong tập truyện được trải rộng từ Hà Nội đến Lào Cai, thậm chí cả vùng biển miền Trung. Đó là những truyện ngắn vừa có sự giản dị, gần gũi, rất đời lại vừa hàm chứa những bài học nhân sinh sâu sắc. Người đọc như được chứng kiến những con người thực, việc thực, sống động đang hiển hiện trước mắt hoặc đã từng gặp ở đâu đó nhưng cũng không kém phần li kỳ. 

Chính những yếu tố kỳ dị, có phần hoang đường được nhà văn khéo léo lồng ghép vào một số truyện ngắn đã tạo nên sự hấp dẫn, khiến ta đã đọc là bị lôi cuốn đến tận dòng chữ cuối cùng (người có gương mặt giống vợ anh, Cám ơn anh nhé, Rơi xuống biển cả, Nhà mới tậu). 

Sự kỳ dị thể hiện ở những chi tiết nửa thực nửa hư, nửa nghĩ là người, nửa nghĩ là một thế lực siêu nhiên nào đó. 

Thế giới tâm linh huyền bí được nhà văn đề cập, gợi một cái gì thiêng liêng như mạch ngầm từ quá khứ nối với hiện tại (Cát bụi, Một đám cổ khâu) giúp những thành viên trong gia đình xích lại gần nhau. 

Đằng sau những yếu tố kỳ bí, nhuốm màu hư ảo trong truyện "Mùa săn ở Na Lê" là cuộc chiến cam go của con người với sức mạnh tàn bạo hủy diệt của thiên nhiên; là cuộc đấu lực, đấu trí giữa tinh người và tinh hổ, giữa cái thiện và cái ác.

Tập truyện đã chứng tỏ khả năng quan sát tinh tế và bao quát đời sống cũng như trăn trở, suy tư của nhà văn trước những vấn đề nhân sinh nóng hổi. Đó chính là sự tha hóa của con người trong xã hội hiện đại nơi thành thị. Những mối quan hệ thiêng liêng như tình thầy trò, lứa đôi, gia đình… bị chà đạp, đảo lộn như một hồi chuông cảnh tỉnh khi vật chất chi phối cách nhìn, cách sống của con người (Đất dữ, Giời có mắt, Quán ăn nổi). 

Ma Văn Kháng còn vạch trần thói xu thời: Tham lam, ích kỷ, mê tín dị đoan. Chuyện giải hạn, xem ngày tốt để động thổ, tìm mộ… với sự xuất hiện của những nhân vật thầy bói, thầy cúng, nhà ngoại cảm chỉ làm tăng thêm sự phê phán, khiến người ta phải suy ngẫm về những giá trị thực của cuộc đời, của hiện tại.

Lấp lánh ánh sáng nhân văn

"Người khách kỳ dị" một lần nữa chứng tỏ sở trường của Ma Văn Kháng là mảng đề tài thế sự bởi trong tập truyện này ông đã dựng lên một bức tranh sinh động về hiện thực cuộc sống với những gam màu phong phú, nhiều cung bậc.

Thế giới nhân vật khá đa dạng, vận động theo sự chuyển biến của xã hội hiện đại. Ở đó có nhiều loại người: Từ anh lái xe Quý thèm thịt chó đến phát cuồng, liều lĩnh lao xe đuổi theo một cái bóng trắng nhỏ bé (Xe chạy đêm) đến vợ chồng anh lính Đường trong xóm trọ nghèo bị thói tham lam, thực dụng khiến cho những trận bạo hành thường xuyên diễn ra (Đất dữ).

Một số truyện đã xây dựng thành công những nhân vật rõ nét về cá tính, được đặt trong những tình huống điển hình của đời sống khiến người đọc như bắt gặp phần nào con người của chính mình ở trong đó. 

Nhà văn đưa ra lời cảnh tỉnh con người cần phải luôn cảnh giác, tránh xa cái xấu cái ác đồng thời lên án những việc làm sai trái, vô đạo đức, mù quáng. 

Bên cạnh những thói hư tật xấu, những xót xa, tủi nhục, nhẫn nhịn là vẻ đẹp của tình người ngời sáng mà ta bắt gặp qua các nhân vật: Thuyết (Nửa đêm), thầy giáo Phùng (Thầy Phùng kỳ quặc khác người), ông Ngọ (Con chuồn ớt và ông già cổ giả), ông Biền (Cám ơn đàn chim rừng). 

Những truyện ngắn ấy lấp lánh ánh sáng nhân văn, khơi gợi bản tính thiện trong mỗi con người đem lại cho chúng ta niềm tin, niềm hi vọng vào những điều tốt đẹp luôn song hành trên đường đời.

Là nhà văn ưa triết lý, Ma Văn Kháng thường xen vào trong truyện của mình những triết lý thâm thúy, những chiêm nghiệm về đời, về người khiến ta phải suy ngẫm: "Đời người như căn nhà lớn có nhiều căn buồng nhỏ, buồn vui, cay đắng ngọt bùi đều đủ chỗ chứa" (tr 202). "Thiên toán bất do nhân toán, người tính không bằng giời tính" (tr 188)… Những triết lý ấy vẫn còn nguyên giá trị bởi nó được viết bằng trải nghiệm của cả cuộc đời nhà văn.

Tập truyện được viết bằng một thứ ngôn ngữ biến hóa và giọng điệu linh hoạt: Khi nhẹ nhàng, rủ rỉ gần gũi, đậm chất đời; khi ly kỳ lôi cuốn bởi những chi tiết độc đáo, chỉ có trong tưởng tượng của nhà văn.

Nhiều truyện tạo được cao trào khiến ta hồi hộp rồi vỡ òa với những cách "cởi nút" tất tự nhiên, lôgic (Người khách kỳ dị, Mùa săn ở Na Lê, Giời có mắt…).

Với Ma Văn Kháng, viết chính là cuộc sống. Viết để gửi gắm những trăn trở về "cõi nhân gian". Vì vậy, đọc tập truyện, ta càng hiểu hơn về hành trình lao động nghệ thuật miệt mài của nhà văn, càng trân trọng tài năng cũng như tâm huyết của ông dành cho văn chương nghệ thuật, cho cuộc đời.

Theo Nam Hồng - GD&TĐ

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Hội Nhà văn Việt Nam được chính thức thành lập từ năm 1957, sau Hội nghị thành lập Hội diễn ra tại trụ sở Câu lạc bộ Đoàn Kết, từ 1/4 đến 4/4/1957. Trong lịch sử văn học Việt Nam thời hiện đại đây là lần đầu tiên có một tổ chức của những người lao động văn học trên  toàn quốc.

  • Tái hiện bức tranh Hà Nội thời bao cấp, rồi từ đó đi tìm cái chất nhân văn thuần nhất trong đời sống con người, “Chuyện ngõ nghèo” là cuốn tiểu thuyết đánh dấu sự trở lại của Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh năm 2017 sau một loạt các tiểu thuyết đình đám như: Mẫu Thượng Ngàn, Hồ Quý Ly, Đội gạo lên chùa…

  • 1. “Thiện, Ác và Smartphone” là tập tiểu luận thứ hai của Đặng Hoàng Giang, sau “Bức xúc không làm ta vô can” - cuốn sách ra mắt năm 2015 và gây được tiếng vang rộng rãi.

  • Nhân chuyến trở lại Việt Nam truyền giảng phật pháp, ngày 4-4, Tiến sĩ Phật học Khangser Rinpoche đến từ Ấn Độ đã dành nhiều thời gian giao lưu cùng bạn đọc tại TPHCM.

  • Nguyễn Trí được biết đến vào năm 2013 khi tác phẩm Bãi vàng, đá quý trầm hương (NXB Trẻ) đoạt giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. “Sự nghiệp” cầm bút của Nguyễn Trí đến nay mới chỉ 5 năm nhưng ông đã có 9 cuốn sách truyện dài, truyện ngắn ra đời.

  • Phan Việt vừa có buổi giao lưu về tác phẩm mới nhất, cũng là tác phẩm chị cho là quan trọng nhất trong bộ ba "Bất hạnh là một tài sản" của mình.

  • Sáng 21-3, tại trụ sở Hội Nhà văn TPHCM, đã diễn ra buổi ra mắt tập tiểu luận, phê bình Nhà văn Lê Văn Thảo trong lòng đồng nghiệp do Hội Nhà văn TP thực hiện (NXB Hội Nhà văn xuất bản).

  • Nhà sách Trí Việt cho biết sau gần 3 năm thực hiện với 6 lần chỉnh sửa, Hội đồng thẩm định cuốn sách “Gạc Ma - Vòng tròn bất tử” do Ban Tuyên giáo TƯ thành lập đã đồng ý cho phép xuất bản cuốn sách này.

  • Lịch sử phát triển của hệ thống thể loại báo chí cho thấy Bút ký chính luận giữ một vai trò quan trọng trong việc định hướng xã hội. Nó là thể loại không thể thiếu trong việc giáo dục tư tưởng, chính trị cho quần chúng. Trong một thế giới đương đại, trong một xã hội bùng nổ thông tin với nhiều biến động, Bút ký chính luận càng trở nên quan trọng và cần thiết cho đời sống.

  • Ngày 4 và 5/1, Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam tiến hành họp để bình chọn bảy tác phẩm xuất sắc của làng viết năm qua. Kết quả được công bố hôm 10/1.

  • Nghiên cứu công phu, tư liệu chính xác, văn phong mạch lạc và giàu cảm xúc, tác phẩm Văn chương phương Nam - một vài bổ khuyết của hai tác giả Võ Văn Nhơn và Nguyễn Thị Phương Thúy không chỉ khiêm tốn “bổ khuyết” mà là công trình giàu tâm huyết với những khám phá ngạc nhiên mới lạ rất hữu ích.

  • Nói về cuốn sách phê bình văn học Giăng lưới bắt chim của mình, Nguyễn Huy Thiệp hay nhắc lại điều thoạt tiên tưởng rằng ông "lấp lửng": tôi viết có đúng có sai, có chính xác có nhầm lẫn, viết khi mình "đang còn nửa mê nửa tỉnh".

  • Có một thực tế là rất nhiều người song hành giữa việc viết văn và viết báo. Xét về góc độ thể loại thì văn học và báo chí là hai thể loại khác nhau nhưng giữa chúng lại có sự tương đồng với nhau về nhiều khía cạnh. Vì thế việc song hành giữa văn chương và báo chí là điểu dễ hiểu.

  • hông biết đã đến đáy chưa thảm trạng tác giả (khoa học và nghệ thuật) bị xâm hại trắng trợn về bản quyền như hai công trình về dân tộc học của GS.Từ Chi, và về sử học của GS.Trần Quốc Vượng. Hai tác giả có tên tuổi đã quá cố, và những nhà xuất bản gây nên sự cố, làm méo mó, biến dạng đứa con tinh thần của họ lại là những nhà xuất bản có những cái tên rất sang, là cơ quan ngôn luận của những cái hội nghề nghiệp lẽ ra phải rất nghiêm chỉnh, đứng đắn trước công luận. Các cơ quan truyền thông đã lên tiếng. Không biết gia đình, thân nhân của hai tác giả có ý kiến gì không? Ta đã có lệ luật gì về những vụ việc như vậy, để đưa ra tòa án dư luận?

  • Chiều 7.10, Hội đồng giám khảo giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội gồm các nhà văn, nhà thơ: Bằng Việt, Nguyễn Việt Chiến, Phạm Xuân Nguyên, Bùi Việt Mỹ, Nguyễn Sĩ Đại, Lê Minh Khuê, Đoàn Tử Huyến, Nguyễn Đăng Điệp, Nguyễn Thành Phong đã họp phiên chung khảo.

  • Ngày 4/10, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã đến dự và phát biểu tại Hội thảo khoa học toàn quốc “Văn học, nghệ thuật với việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam” do Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh.

  • Tác phẩm văn xuôi, trong đó có truyện ngắn xuất hiện trên báo chí đã trở thành món ăn tinh thần nhiều năm nay cho độc giả. Tuy nhiên, dường như món ăn tinh thần này đang ngày càng có xu hướng bị co lại, bị thay thế.

  • Sáng tạo văn học nghệ thuật về đề tài chiến tranh, cách mạng thời gian qua đã có nhiều đổi mới và được giới chuyên môn ghi nhận.

  • Viết về cuộc Cách mạng mùa Thu 70 năm về trước, nhà văn  Nguyễn Đình Thi -  người can dự, đồng thời là chứng nhân của cuộc cách mạng vĩ đại đó (Năm1945 ông dự Hội nghị Quốc dân Tân Trào và được cử vào Ủy ban Giải phóng dân tộc; sau đó được bầu làm Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I là Ủy viên thường trực) đã ví nó giống như “một cuộc lột vỏ”, “rũ bùn” đứng lên của con người, của dân tộc Việt Nam: Súng nổ rung trời giận dữ/ Người lên như nước vỡ bờ/ Nước Việt Nam từ máu lửa/ Rũ bùn đứng dậy sáng lòa (Đất nước).        

  • Sau gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới về văn hóa văn nghệ được đề ra trong Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12/1986), văn học Việt Nam đã có nhiều bước chuyển sâu sắc, đạt nhiều thành tựu đáng kể trên tất cả các thể loại, góp phần quan trọng vào việc xây dựng nền tảng văn hóa, tinh thần của con người và xã hội.