Ở vào tuổi xấp xỉ 80, đi qua bao nhiêu dâu bể của đời người, ngỡ tưởng đã không còn điều gì có thể khiến ông muộn phiền, phải rơi nước mắt. Ấy vậy mà trong buổi gặp mặt bạn bè và độc giả nhân dịp ra mắt tác phẩm Vườn chanh miệt biển được tổ chức gần đây tại TPHCM, nhà văn Kiệt Tấn (ảnh) với mái tóc trắng cước, vẫn cười nói và vẫn khóc ngon lành. Xúc cảm vẫn còn đong đầy như thuở ông viết Em điên xõa tóc, Đêm cỏ Tuyết, Người em xóm học…
Tinh tế và giàu cảm xúc
Thực ra, đó là những giọt nước mắt vui, không có gì lạ lùng hay khó hiểu, bởi chẳng có quy luật nào cho những giọt nước mắt. Người ta có thể buồn thì nhoẻn miệng cười và ngược lại, khóc cho những niềm vui đang hiện diện. Huống chi trong lần hạnh ngộ này, dù không nhiều nhưng vẫn còn đó những người bạn cũ. Và cả người mới, những độc giả đầu xanh đem lòng yêu mến văn chương Kiệt Tấn.
Chừng đó cũng đủ vui rồi và niềm vui ấy mang hình hài của những giọt nước mắt. Nhà văn Kiệt Tấn (tên thật là Lê Tấn Kiệt, sinh năm 1940 tại làng Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu) chạm ngõ văn chương bắt đầu bằng thơ. Ông có tập thơ Điệp khúc tình yêu và trái pháxuất bản năm 1966. Về sau, ông chuyển sang viết văn xuôi nhiều hơn và người ta nhớ về ông có lẽ phần lớn nhờ văn xuôi hơn là thơ.
Nghe nói 2 năm trước, cũng có một nhà sách mời ông về giao lưu với độc giả. Còn lần này, ông có dịp tái ngộ với độc giả trong nước nhân dịp cuốn sách Vườn chanh miệt biển được Công ty Thiện Tri Thức và NXB Đà Nẵng ấn hành.
Bạn đọc trong nước từng biết đến Kiệt Tấn qua một số ấn phẩm như Em điên xõa tóc (NXB Văn hóa Sài Gòn, 2009), Người em xóm học (NXB Thời đại, 2011), Lớp lớp phù sa(NXB Văn hóa - Văn nghệ, 2012) và Đêm cỏ Tuyết (NXB Hội Nhà văn, 2014). Tuyển tập Vườn chanh miệt vườn là tuyển tập thứ 5 của ông được xuất bản tại Việt Nam.
Tuyển tập gồm 5 tác phẩm, trong đó có 4 truyện ngắn và 1 tùy bút. Các truyện ngắn: Nụ cười tre trúc, Em vịt vàng nhỏ của tôi ơi!, Năm nay đào lại nở và Bạch thử cô nương tập trung vào chủ đề hoài niệm về những ký ức thời thơ ấu và tuổi trẻ của tác giả ở quê nhà vào khoảng nửa đầu thế kỷ 20 tại vùng đất Nam bộ. Còn tùy bút Vườn chanh miệt biển là những suy tưởng về cuộc đời, con người và những điều tác giả đã trải qua trong những năm tháng sống xa quê hương.
Thực ra, những truyện ngắn và tùy bút kia đã được in rải rác trong một số tuyển tập trước của Kiệt Tấn. Nhưng điều này hoàn toàn không gây khó chịu cho độc giả, nhất là với những độc giả trẻ bắt đầu tiếp cận văn chương Kiệt Tấn. Và chắc chắn, mỗi lần đọc, người đọc lại có một dư vị khác nhau.
Bởi đó là thứ văn chương được viết kỹ lưỡng, tinh tế và giàu cảm xúc. Văn chương Kiệt Tấn, nếu để so sánh, có lẽ không có gì chính xác hơn là món thịt kho do đích thân người cha của ông vào bếp mỗi lần tết về. Chỉ là miếng thịt heo ba rọi có nhiều mỡ, cắt cục vuông thiệt lớn, lấy cọng lát buộc chéo ngang rồi đốt lửa riu riu, kho thiệt lạt và kho thiệt nhiều bận lửa.
Vậy thôi mà khiến ông nhớ da diết: “Chừng đem ra ăn, mỡ đã rệu, chỉ cần mó đũa vào là mỡ phao ra, đưa vào miệng là chỉ có nuốt cái hương vị béo bùi, thả bánh tét vào nhâm nhi là hết sảy. Ăn từ mùng một tới mùng ba vẫn không biết ngán, vì càng nhiều lửa, thịt càng mềm mỡ càng rệu”. (Trích Em vịt vàng nhỏ của tôi ơi!).
Không tìm hạnh phúc trong văn chương
Một trong những yếu tố không kém phần quan trọng của văn chương, từng được nhiều nhà văn xác quyết, chính là tính hư cấu và trí tưởng tượng. Thậm chí có người cho rằng, chính trí tưởng tượng mới giúp cho nhà văn đi xa. Và bao nhiêu năm nay, có vô số tác phẩm văn chương đã ra mắt, từng đoạt giải Nobel hay các giải thưởng danh giá khác thì đại đa số đều là sản phẩm của trí tưởng tượng phong phú và giàu có.
Còn văn chương Kiệt Tấn là trường hợp hoàn toàn ngược lại. Văn của ông tự nhiên, dường như đã không tồn tại ranh giới giữa đời thường và hư cấu. Thậm chí có những con người, những câu chuyện thật ngoài đời được ông đưa vào văn chương rất nhuần nhị, không có cảm giác đang đọc tự truyện hay hồi ký.
Ông tâm sự: “Khi viết văn, tôi không hư cấu. Nếu có gọi là hư cấu thì với những chi tiết có thật, mình phải sắp xếp như thế nào đó để nó thành văn chương. Khi viết truyện, tôi phải giữ nguyên tên nhân vật mới viết được, nếu sửa tên, tôi cảm thấy xa lạ với mình, không viết được nữa. Hồi nhỏ, tôi có đọc tiểu thuyết nhưng sau này thì không, vì khi cầm sách lên, tôi biết câu chuyện này là bịa đặt, khó chịu lắm!”.
Nhà văn Kiệt Tấn có một nguyên tắc: không viết thì thôi, đã viết phải gợi cho người đọc sự thích thú, cho họ thấy được những điều đẹp đẽ trong cuộc sống. Khi viết, ông luôn đặt mình vào vị trí của người đọc để trả lời cho câu hỏi: Viết như vậy thì họ đọc có thấy thích không?
“Tôi muốn mọi sự nó tự nhiên, chứ không phải gọt giũa. Tôi không cầu kỳ, chỉ muốn viết sao mà người ta đọc thấy đẹp, thấy tự nhiên. Chứ không phải viết để người ta đọc xong rồi ngán ngẩm: Ông này cố dùng những chữ đọc lên nghe chan chát. Tôi rất kỵ chuyện đó”, nhà văn Kiệt Tấn bộc bạch.
Sự tự nhiên trong văn chương Kiệt Tấn dễ khiến nhiều người nghĩ rằng ông viết văn dễ dàng. Nhưng thực tế không phải vậy. Ông tự nhận: “Tôi viết rất khổ. Nếu mà sống hạnh phúc thì không bao giờ tôi viết. Tôi viết như người ta lên đồng, khi khóc khi cười, khổ lắm. Tôi không tìm hạnh phúc trong văn chương, viết vì nhu cầu viết, không phải đi tìm cái gì trong đó, không nghĩ mình làm văn chương. Tôi cũng chẳng biết văn chương là gì hết”.
Hỏi nhà văn Kiệt Tấn, chủ trương viết của ông là như thế nào? Nghĩ một hồi, ông bảo, chủ trương viết của tôi là viết từ bên trái sang bên phải, viết từ trên xuống. “Chỉ vậy thôi, chứ tôi cũng không biết phải viết làm sao nữa. Viết vậy người ta mới đọc được, chứ viết ngược làm sao người ta đọc được”, ông nói xong rồi cười hóm hỉnh…
Theo Hồ Sơn - SGGP
Giải thưởng văn học Sông Mekong lần thứ 11 sẽ diễn ra tại thủ đô Phnompenh, Campuchia vào cuối năm 2020. Hai tác giả Việt Nam đoạt Giải thưởng năm nay là tác giả Trần Nhuận Minh với tác phẩm sách thơ Qua sóng Trường Giang và tác giả Trần Ngọc Phú với tác phẩm Từ Biên giới Tây Nam đến đất Chùa Tháp.
Trong dịp kỷ niệm 100 năm Ngày sinh nhà thơ Tố Hữu (4-10-1920 - 4-10-2020), NXB Hội Nhà văn cho ra mắt bạn đọc tập sách dày dặn, công phu và nghĩa tình Tố Hữu - Một đường thơ, một đường đời.
Nhà thơ Vũ Quần Phương cho rằng, người cuối cùng của phong trào Thơ mới vừa từ giã bạn đọc ở tuổi 100 – thi sĩ Nguyễn Xuân Sanh - là người “không để thơ… ngủ quên trên thành công của dòng lãng mạn trước đó”.
Đoàn Ngọc Thu nói rằng chị thích thơ của mình ngày xưa hơn. Những xúc cảm ấy vẫn như còn váng vất trong những vần thơ trong tập “Sau bão” (NXB Hội Nhà văn, 2020).
Ra đời cách đây 25 năm, bộ truyện “Kính Vạn Hoa” của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh có ý nghĩa đặc biệt, khơi luồng gió mới cho văn học thiếu nhi Việt Nam thời kỳ đổi mới, mang đến món ăn tinh thần lý thú bổ ích. Tuy nhiên, quá trình thực hiện bộ sách cũng thử thách những người chọn lựa bước trên con đường dài sáng tạo không ngừng nghỉ.
Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh sinh năm 1920 tại Ðà Lạt, nguyên quán Quảng Bình, lúc nhỏ theo học ở Trường Quốc học Quy Nhơn (cũ), sau đó chuyển ra Hà Nội.
Sáng 22/11/2020, Nhà thơ Trần Đăng Khoa đã thông báo chia sẻ tin buồn cho các nhà thơ và những người yêu thơ đó là nhà thơ tiền bối nổi tiếng Nguyễn Xuân Sanh vừa qua đời.
NXB Văn học giới thiệu “Nghề vương bụi phấn”, tác phẩm thứ ba của tác giả Nguyễn Huy Du, gồm những câu chuyện về tình thầy trò với văn phong mộc mạc, giản dị nhưng lôi cuốn, nhân Ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11.
Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh sinh ngày 16 tháng 11 năm 1920, quê gốc thuộc huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Ông cũng là một trong những hội viên tiền phong tham gia xây dựng Hội Nhà văn Việt Nam. Năm nay ông tròn 100 tuổi. Hội Nhà văn Việt Nam vừa tổ chức chúc thọ nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh tại trụ sở số 9, Nguyễn Đình Chiểu hôm 9/11/2020 với sự tham gia của lãnh đạo Hội, các nhà văn nhà thơ và đại diện gia đình của ông.
“Nẻo vào văn xuôi đương đại Việt Nam” là tập tiểu luận - phê bình của TS Bùi Như Hải, do NXB Văn học ấn hành tháng 9-2020.
Sáng 5-11, Viện Văn học Việt Nam đã tổ chức toạ đàm nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh PGS – nhà nghiên cứu văn học Vũ Đức Phúc. Đây là một dịp để các thế hệ Viện Văn học ngồi lại cùng ôn cố và “soi chiếu cho tương lai” – như lời PGS,TS Nguyễn Đăng Điệp, Viện trưởng Viện Văn học nhận định.
Bằng sự lao động miệt mài và nghiêm túc, nhà văn Lê Văn Nghĩa thường gửi đến độc giả những đầu sách độc đáo, nhiều cuốn trong số đó có giá trị như một “bảo tàng ký ức” của không chỉ riêng tác giả.
Thạch Lam (1910 - 1942) là đại biểu xuất sắc của văn xuôi lãng mạn Việt Nam thời kì 1930 - 1945. Văn Thạch Lam đọng nhiều suy nghiệm, nó là cái kết tinh của một tâm hồn nhạy cảm và từng trải về sự đời (Nguyễn Tuân).
Sáng ngày 20/10/2020, Hội Nhà văn Việt Nam đã tổ chức kỉ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ Tố Hữu (4/10/1920 – 4/10/2020).
Đã có nhiều nhà văn viết về Hà Nội - Thủ đô yêu dấu - như Thạch Lam, Vũ Bằng, Tô Hoài, Nguyễn Khải… Nhưng tập truyện ký “Hà Nội và tôi” (NXB Hội Nhà văn) gần 300 trang với hơn 20 tác phẩm của nhà văn Vũ Ngọc Tiến, một người Hà Nội gốc, đã cho ta biết thêm một phần chân dung về những con người của đất Tràng An thanh lịch.
Tháng 10, nhân kỷ niệm 66 năm ngày Giải phóng Thủ đô, Nhã Nam giới thiệu tới bạn đọc một tác phẩm mới của nhà văn Nguyễn Trương Quý, cây viết vốn quen thuộc với những tản văn về các góc nhỏ của Hà Nội: “”Hà Nội bảo thế là thường”.
Rất lâu rồi, không có luận văn, luận án nào về thơ Tố Hữu. Cũng lâu lắm rồi, sau Hà Minh Đức, Trần Đình Sử… rất ít người viết về thơ ông. Tôi cũng chưa bao giờ viết về thơ Tố Hữu khi ông còn sống. Nhưng với chúng tôi, thơ Tố Hữu là nguồn suối tươi mát, mạch ngầm sống động trong đời sống tinh thần. "Chúng tôi" ở đây là thế hệ những người ở lứa tuổi 70. Trong quãng thời gian 70 năm của một đời người thì ít nhất có 30 năm (1954 - 1975) chúng tôi đã được sống với thơ Tố Hữu.
Bằng kiến thức của một chuyên gia đầu ngành và sự trân trọng quá khứ một đi không trở lại, ông đã chỉ ra giá trị của cuốn sách và ý nghĩa của việc làm sống lại những kí ức Hà Nội rất đặc biệt thông qua cuốn sách này...
Có một bộ phim tôi không thực nhớ nội dung, một bộ phim của Woody Allen mang tên "Đóa hồng tím ở Cairo", câu chuyện mang máng mà tôi còn nhớ, đó là một người phụ nữ thất bại trong tất cả mọi khía cạnh cuộc đời, rồi cô vào một rạp chiếu bóng, xem một bộ phim, và trong giây phút ấy, cô quên béng mất cuộc đời mình, cô òa khóc, không phải vì mình, mà vì những nhân vật trong phim.
Năm 1941, với việc xuất bản Dế mèn phiêu lưu ký ở tuổi 20 (bản in đầu tiên có nhan đề Con dế mèn), Tô Hoài có được hai vinh dự lớn trong nghề cầm bút: Trở thành người mở đầu thể loại truyện đồng thoại; Tác phẩm mở đầu lại là đỉnh cao của thể loại, đồng thời là một trong những áng văn học thiếu nhi nổi tiếng thế giới nhất của Việt Nam.