TRẦN NGUYÊN HÀO
Năm 1987, tổ chức Giáo dục - Khoa học - Văn hóa của Liên hiệp quốc, UNESCO trong cuộc họp Đại hội đồng lần thứ 24 (tại Paris từ 20/10 đến 20/11) đã ra Nghị quyết phong tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh danh hiệu kép: “Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn”.
Không phải bất cứ ai hoạt động và sáng tạo trong lĩnh vực văn hóa đều là nhà văn hóa, mà chỉ được thừa nhận là nhà văn hóa nếu chủ thể hoạt động và sáng tạo đó vươn tới tầm cao của tri thức văn hóa, khoa học... ở thời đại, để từ đó sáng tạo ra những giá trị văn hóa đóng góp xứng đáng vào sự phát triển của nền văn hóa dân tộc và văn hóa nhân loại. Chủ tịch Hồ Chí Minh vượt lên trên những tiêu chí đó để xứng đáng là nhà văn hóa lớn của thế giới.
Trong Nghị quyết Đại hội đồng UNESCO lần thứ 24, khi phong tặng Hồ Chí Minh danh hiệu kép “Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn” (Vietnamese hero of national liberation anh great man of culture - nguyên văn bản dịch tiếng Anh), UNESCO đã đánh giá: “Chủ tịch Hồ Chí Minh là một biểu tượng kiệt xuất của sự khẳng định dân tộc, đã cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, sự đóng góp quan trọng và nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và nghệ thuật là kết tinh của truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam với lịch sử hàng nghìn năm, và những lý tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc văn hóa và thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh được thừa nhận là nhà văn hóa lớn vì trước hết Người đã khởi xướng phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc, giải phóng các dân tộc thuộc địa, giành lại độc lập tự do cho các dân tộc bị bóc lột, phấn đấu vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho muôn người. Đó không phải chỉ là một sự nghiệp chính trị phi thường mà còn là một sự nghiệp văn hóa cao cả. Hồ Chí Minh là người đầu tiên đưa chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, lấy đó làm cơ sở thế giới quan và phương pháp luận cho việc xây dựng nền văn hóa mới ở Việt Nam. Người là kiến trúc sư vĩ đại của công cuộc cải cách và xây dựng nền văn hóa mới ở Việt Nam, tạo ra một cách nhìn mới, một thế giới quan mới, tạo lập một ý thức chính trị, ý thức đạo đức, ý thức pháp luật, ý thức nghệ thuật mới...
Trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã khơi mở các tiềm năng tinh thần truyền thống Việt Nam, định hướng cho sự ra đời một nền văn hóa mới, một xã hội nhân cách mới. Người là kết tinh truyền thống văn hóa hàng nghìn năm của nhân dân Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Người đã đưa nền văn hóa Việt Nam lên một tầm cao mới và khẳng định bản sắc văn hóa của dân tộc mình trước thế giới cũng như góp phần đưa văn hóa Việt Nam giao lưu, hòa nhập với văn hóa thế giới. Tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc, cốt cách văn hóa của dân tộc mình đã hình thành từ những năm 20 của thế kỷ XX. Năm 1924, khi đến thăm triển lãm nghệ thuật tổ chức tại Matxcơva, Người đã nhấn mạnh “mỗi dân tộc phải chăm lo đặc tính dân tộc của mình trong văn hóa nghệ thuật”(1). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những đóng góp quan trọng trong việc “thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau” giữa các dân tộc mà trước hết là hiểu biết về văn hóa. Đây chính là những chủ trương về văn hóa của các dân tộc cũng như của UNESCO trong xu thế giao lưu, hội nhập, toàn cầu hóa hiện nay.
Hồ Chí Minh là biểu tượng của sự kết hợp hài hòa tinh hoa văn hóa dân tộc và văn hóa nhân loại, thể hiện một cách tiêu biểu và nổi bật sự kết hợp giữa những giá trị nhân văn của dân tộc, những đạo lý của con người Việt Nam với chủ nghĩa Mác-Lênin, chân lý của thời đại và tinh hoa văn hóa nhân loại bao gồm cổ, kim, Đông, Tây. Tư tưởng của Người về văn hóa thể hiện ở ý thức rõ ràng của Người về bản sắc và giá trị của văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại. Người xác định càng thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin, càng phải coi trọng truyền thống tốt đẹp của cha ông (2). Người giáo dục nhân dân: “Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”(3).
Với tư cách là chủ thể sáng tạo văn hóa, Hồ Chí Minh là nhà thơ lớn, nhà văn, nhà báo cách mạng vĩ đại. Sinh thời, Người đã thẳng thắn khước từ mọi danh hiệu làm văn hóa - nghệ thuật mà mọi người thường gắn cho mình. Đúng là người không chú tâm làm nghệ thuật nhưng sự nghiệp cầm bút vì cách mạng của Người đã để lại cho chúng ta một sự nghiệp văn hóa “vô cùng trong sáng và đẹp đẽ, vô cùng cao thượng và phong phú” như chính cuộc đời của Người. Thơ Hồ Chí Minh phần lớn là những bài thơ “đuổi giặc”, bài nào cũng có thể tìm thấy ở đó một ý nghĩa chính trị nhất định, song không bài nào vắng bóng con người. Khát vọng tự do công lý, ấm no, hạnh phúc, hòa bình..., sự cổ vũ cho cái đẹp và mối quan hệ nhân văn giữa người với người, đó là một nội dung chủ đạo trong thơ Hồ Chí Minh. Vì vậy, những bài thơ của Người, trong đó có một số bài ra đời trong cảnh ngộ oái oăm đã trở thành “thơ của muôn đời” bởi giá trị nhân văn cao quý, tỏa sáng từ một tâm hồn lớn, một nhân cách lớn.
Hồ Chí Minh là nhà văn lớn, và là người mở đầu và đặt nền móng cho nền văn xuôi cách mạng Việt Nam. Người đã tìm tòi, thử bút trên nhiều thể loại: tiểu thuyết, du ký, truyện viễn tưởng, truyện ngắn, truyện ký, kịch, văn chính luận... và ở lĩnh vực nào Người cũng đạt được thành tựu. Người đã đem lại cho văn chương cách mạng nước ta những yếu tố rất hiện đại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là bậc thầy của nền báo chí cách mạng Việt Nam. Ngòi bút của Người đã tung hoành trên mặt trận báo chí, thức tỉnh các dân tộc bị áp bức, truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, lên án chủ nghĩa thực dân, chỉ đạo phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa. Chính Người đã sáng lập và là linh hồn của nhiều tờ báo vô sản đầu tiên trong lịch sử báo chí nước ta và trên thế giới, trước hết là tờ báo Người cùng khổ ở Pháp, tờ Thanh niên, Công nông, Lính cách mệnh, Việt Nam độc lập ở Trung Quốc và Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà văn hóa kiệt xuất bởi Người là mẫu mực của tinh thần hợp dung văn hóa. Người nhắc nhở phải giữ gìn, phát huy truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc, nhưng không tự bó mình trong chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, thiển cận mà kêu gọi phải ra sức nghiên cứu học tập tinh hoa văn hóa của thế giới xưa và nay. Người còn là hiện thân của văn hóa hòa bình, của đường lối ngoại giao hòa bình, luôn luôn chủ trương giải quyết mọi xung đột bằng thương lượng, đối thoại với thái độ hiểu biết và nhân nhượng lẫn nhau. Ngay từ năm 1947, Người đã khẳng định phương hướng đối ngoại của nước ta là: “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”(4).
Là nhà văn hóa lớn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên trước nhân loại tấm gương của một con người luôn luôn vươn tới đỉnh cao của văn hóa. Tiêu biểu cho những giá trị đỉnh cao của Người khi trở thành nhà văn hóa lớn phát triển về nhiều mặt: Về mặt trí tuệ, Người là nhà văn hóa uyên bác cả Đông, Tây, kim, cổ, thể hiện tài năng trên mọi lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa… Về mặt tình cảm, Người mang một “trái tim mênh mông”, “ôm cả non sông vạn kiếp người”. Người thương yêu nhân dân mình và thương yêu cả nhân dân thế giới, lo lắng đến vận mệnh cả nhân loại và quan tâm đến số phận của từng con người. Về mặt hành động, Người là anh hùng kết hợp cả Nhân, Trí, Dũng, nổi lên ở một nghị lực phi thường và một đầu óc vô cùng nhạy bén và sáng tạo. Về tư tưởng triết học, ở phương Tây, Người tiếp thu truyền thống nhân văn từ cổ Hy - La đến Mác-Lênin, đem lại cho truyền thống nhân văn tính hiện thực và tính chiến đấu. Ở phương Đông, Người gạn đục khơi trong, tiếp thu mọi nhân tố tích cực của cả Nho giáo, Lão giáo, Phật giáo. Trong đời sống riêng tư, Người vừa theo đuổi những hoài bão lớn nhất, vừa sống một cuộc sống giản dị và bình thường về nhu cầu vật chất nhưng lại vô cùng phong phú về tinh thần. Người là chiến sĩ đồng thời là nghệ sĩ, là anh hùng dân tộc và danh nhân văn hóa. Trong những ngày căng thẳng nhất trước công cuộc kháng chiến và kiến quốc, Người luôn thể hiện một sự hài hòa hiếm có: gần gũi với thiên nhiên, gắn bó với xã hội và tu dưỡng bản thân.
Có thể khẳng định nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh đã sáng tạo ra một thời đại mới, một nền văn hóa mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam, cũng là những giá trị đóng góp vào sự phát triển của văn hóa thế giới. Nhiều chủ trương văn hóa được Người đề ra rất sớm - từ giữa những năm 40 và 50 của thế kỷ XX như: xóa mù chữ, trồng cây phủ xanh đồi trọc, cải tạo môi trường sinh thái… đến đầu những năm 90 đã được Liên hợp quốc đề lên thành những cuộc vận động lớn trên toàn thế giới. Hồ Chí Minh cho thấy rõ vị trí và ý nghĩa của văn hóa ứng xử. Người đã từng nói một cách vắn tắt: “Chúng ta sống trong thời vẻ vang thì phải sống cho xứng đáng”.
Hoàn toàn không phải ngẫu nhiên Chủ tịch Hồ Chí Minh lại được UNESCO tôn vinh danh hiệu anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn. Nhà văn Xôviết Ôxips Manđenxtam, từ năm 1923 đã nhận xét: “Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa châu Âu, mà có lẽ là một nền văn hóa tương lai”(5). Đó là nền văn hóa thống nhất giữa văn hóa với cách mạng. Bởi vì, bản thân cách mạng cũng là một sự nghiệp văn hóa, nó biểu hiện trọn vẹn một thiên hướng và khả năng sáng tạo, chứng minh và đòi hỏi chúng ta một niềm tin sâu sắc ở tương lai, như nhà văn hóa lớn Côlômbia là Marquez, người được giải thưởng Nobel, tại cuộc gặp lần thứ hai các nhà trí thức Mỹ Latinh, đầu tháng 12-1985, đã phát biểu. Nền văn hóa đó kết hợp truyền thống và hiện đại, dân tộc và nhân loại, phương Đông và phương Tây, thể hiện lý tưởng chung của loài người là độc lập, tự do, hạnh phúc. Nhân loại đã thấy ở Hồ Chí Minh biểu tượng của nhà văn hóa tương lai. Nhân loại đã thấy ở Hồ Chí Minh không chỉ là nhà tư tưởng lớn, nhà lý luận mà còn thấy ở Người một mẫu mực của con người phát triển toàn diện. Sự nghiệp và phong cách văn hóa Hồ Chí Minh như là một trong những dòng chủ lưu đã và đang hòa mình vào dòng chảy của văn hóa thời đại.
T.N.H
(SH288/02-13)
-----------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
(3) GS.PTS. Đỗ Huy, Tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1997.
(4) PGS. TS Đinh Xuân Lý - PGS.TS Phạm Ngọc Anh, Một số chuyên đề về tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2008.
(5) Bác Hồ với văn nghệ sĩ, Nxb. Tác phẩm mới, Hà Nội,1985.
PHONG LÊ Trở ngược lại buổi đầu của nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa trên phạm vi toàn thế giới, ta đều thấy lực lượng viết của văn học “vô sản - cách mạng” - như tên gọi ở giai đoạn hình thành của nó, cơ bản được cấu tạo từ hai nguồn.
Lời người dịch: Nhà thơ Slam Lisa Martinovic đồng ý cho chúng tôi chuyển dịch bài viết ngắn này, khởi đầu giới thiệu với bạn đọc một phong trào thơ trình diễn Mỹ. Đây là một phong trào thơ được nhà thơ Marc Smith sáng lập tại Chicago.
TRẦN KIÊM ĐOÀNMấy tháng trước ngày cơn đại sóng thần - grand tsunami - vỡ trào quét vào vùng biển Ấn Độ vào năm 2004, tàn phá vùng duyên hải của 12 nước ven biển và giết hại 230 nghìn mạng sống, người ta chú ý đến hiện tượng thiên di của các loài động vật.
NGUYỄN QUÂNLà một người vẽ mà lại yêu thơ, khi đọc liên tưởng của tôi trước hết là liên tưởng của con mắt. Cái chúng ta quen gọi là hình ảnh, hình tượng thơ … với tôi trước hết là cái có thể nhìn thấy trong đầu, khi đọc thơ.
LÊ QUANG THÁIVăn khảo luận ít khi viết năm Mão như văn nói thông thường, chỉ vì chưa định rõ năm nào trong các năm: Ất Mão, Đinh Mão, Kỷ Mão, Tân Mão, Quý Mão. Cho nên, không thể dịch ra tiếng Anh: “Year of the cat” một cách vô tư lự được. Viết quảng cáo lớn chữ “Xuân Tân Mão, 2011” mà lại dịch một cách tùy tiện như trên hẳn là chưa ổn.
NGUYỄN DƯ…Bốn cột lang, nha cắm để chồng/ Ả thì đánh cái, ả còn ngong/ Tế hậu thổ khom khom cật,/ Vái hoàng thiên ngửa ngửa lòng/ Tám bức quần hồng bay phới phới,/ Hai hàng chân ngọc đứng song song./ Chơi xuân hết tấc xuân dường ấy,/ Cột nhổ đem về để lỗ không. (Cây đánh đu, Hồng Đức quốc âm thi tập)…
NGUYỄN ĐỨC TÙNGTôi mới đọc Xuân Quỳnh gần đây: với tôi, thơ chị ở quá xa. Nhưng càng đọc càng gần lại. Vì chị thường nói về thời gian: Bao mùa thu hoa vẫn vàng như thế/ Chỉ em là đã khác với em xưa
LƯƠNG ANMiên Thẩm là một nhà thơ hoàng tộc có tiếng giữa thế kỷ 19. Qua thơ văn ông, chúng ta gặp một con người, tuy bị giai cấp xuất thân hạn chế rất nhiều, song vẫn biểu hiện một ý thức thương dân và một tinh thần lo lắng cho vận mệnh đất nước vốn không phải phổ biến trong tầng lớp nhà nho - trí thức phong kiến lúc bấy giờ.
PHONG LÊGiá Bác không đi Trung Quốc? Hoặc giá Bác không bị bọn Tưởng bắt giam? Hoặc nữa, đã có tập thơ, nhưng năm tháng, chiến tranh, cùng bao nhiêu sự cố khiến cho tập thơ không còn về được Viện bảo tàng cách mạng?
L.T.S: Bài viết của Trần Đình Sử về đóng góp của thơ Tố Hữu trong việc phát triển thể tài thơ chính trị và khuynh hướng sử thi trong biểu hiện không phải không có nhiều chỗ phải bàn cãi. Tuy nhiên tạp chí vẫn coi đây là một cách tiếp cận mới để khám phá nguồn thơ phong phú của một trong những nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Xin giới thiệu bài tiểu luận này để bạn đọc cùng suy nghĩ trao đổi.
ĐÔNG HÀVăn chương bắt nguồn từ cuộc sống. Với Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng vậy, mỗi trang viết của anh là một sự khởi nguyên rất chân thật. Không thiên về lối miêu tả nhưng bằng cặp mắt tinh tế sắc sảo của mình, Hoàng Phủ đã “nói” về cuộc sống từ những tinh chất của thiên nhiên và con người Huế đọng lại dưới ngòi bút của anh.
VÊ-RA CU-TÊ-SƠ-CHI-CÔ-VAVê-ra Cu-tê-sơ-chi-cô-va là tiến sĩ ngữ văn, giáo sư nghiên cứu ở Học viện Gorki về văn học thế giới thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô.
NGUYỄN HOÀN Nhạc Trịnh Công Sơn lâu nay đã “chinh phục hàng triệu con tim, không chỉ ở trong nước, mà ở cả bên ngoài biên giới nữa” (Văn Cao).
PHAN NGỌC1- Trong việc nghiên cứu Truyện Kiều, xu hướng xưa nay là đưa ra những nhận xét căn cứ vào cảm thụ thẩm mỹ của mình. Những nhận xét ấy thường là rất tinh tế, hấp dẫn. Nhưng vì quan điểm khảo sát là chỉ phân tích những cảm nghĩ của mình căn cứ đơn thuần vào Truyện Kiều, không áp dụng những thao tác làm việc của khoa học hiện đại, cho nên không tránh khỏi hai nhược điểm:
ĐẶNG TIẾNMèo là thành phần của tạo vật, không hệ thuộc loài người, không phải là sở hữu địa phương. Nói Mèo Huế là chuyện vui ngày Tết. Đất Huế, người Huế, tiếng Huế có bản sắc, biết đâu mèo Huế chẳng thừa hưởng ít nhiều phẩm chất của thổ ngơi và gia chủ?
TRIỀU NGUYÊNCó nhiều cách phân loại câu đối, thường gặp là ba cách: dựa vào số tiếng và lối đặt câu, dựa vào mục đích sử dụng, và dựa vào phương thức, đặc điểm nghệ thuật. Dựa vào số tiếng và lối đặt câu, câu đối được chia làm ba loại: câu tiểu đối, câu đối thơ, và câu đối phú. Bài viết ngắn này chỉ trình bày một số câu đối thuộc loại câu tiểu đối.
KHÁNH PHƯƠNGNăm 2010 khép lại một thập kỷ văn học mang theo những kỳ vọng hơi bị… “lãng mạn”, về biến chuyển và tác phẩm lớn. Nhiều giải thưởng của nhiều cuộc thi kéo dài một vài năm đã có chủ, các giải thưởng thường niên cũng đã… thường như giải thưởng, nhà văn và bạn đọc thân thiết hồ hởi mãn nguyện tái ngộ nhau trên những đầu sách in ra đều đặn… và người thực sự quan tâm đến khía cạnh nghề nghiệp trong đời sống văn chương lại tự hỏi, những sự kiện đang được hoạt náo kia có mang theo trong nó thông tin gì đích thực về thể trạng nghề viết hay không? Nếu có, thì nó là hiện trạng gì? Nếu ngược lại, thì phải tìm và biết những thông tin căn bản ấy ở đâu?
MIÊN DIVẫn biết, định nghĩa cái đẹp cũng giống như lấy rổ rá... múc nước. Vì phải qui chiếu từ nhiều yếu tố: góc nhìn, văn hóa, thị hiếu, vùng miền, phong tục... Tiểu luận be bé này xin liều mạng đi tìm cái chung cho tất cả những góc qui chiếu đó.
INRASARA1. Điểm lại mười căn bệnh phê bình hôm nay
XUÂN NGUYÊNHơn ở đâu hết, thơ mang rất rõ dấu ấn của người làm ra nó. Dấu ấn đó có thể là do kinh nghiệm sống, do lối suy nghĩ… đưa lại. Đứng về mặt nghệ thuật mà nói, dấu ấn trong thơ có thể được tạo nên bởi lối diễn đạt, bởi mức độ vận dụng các truyền thống nghệ thuật của thơ ca.