TÔ NHUẬN VỸ
Tại Hội thảo văn học hè hàng năm của Trung tâm William Joner - WJC, nay là Viện William Joiner Institute - WJI, thuộc Đại học Massachusetts - Hoa Kỳ, nhà thơ Võ Quê đã được chính thức mời giới thiệu nghệ thuật ca Huế.
Đây là lần thứ 2 nhà thơ Võ Quê hoạt động ca Huế tại Hoa Kỳ. Lần thứ 1, năm 1995, giữa lúc Mỹ đang cấm vận Việt Nam, anh cùng đoàn ca Huế của Hội VHNT Thừa Thiên - Huế tham gia Liên hoan nhạc dân gian Quốc tế tại Lowell. Lần này, không ca sĩ, không nhạc công, không mũ áo son phấn... anh “mình trần thân trụi” tác chiến! Chỉ với một tấm bảng dán 5, 6 tấm ảnh hoạt động ca Huế. Và với niềm say mê tha thiết, sự tôn trọng sâu sắc và hiểu biết đa dạng về nghệ thuật dân tộc, anh đã làm cho toàn bộ các nhà văn, nhà thơ, giáo sư tiến sĩ... vốn thâm hậu về hiểu biết văn hóa, trong đó có không ít người đã đến Việt Nam, đã đến Huế... hàng chục lần, hàng mấy chục lần đều say theo, nín thở theo giọng ca, hơi thở của anh. Anh giới thiệu tổng quát về ca Huế, về lịch sử phát triển, so sánh với dân ca các vùng miền tiêu biểu... Anh lần lượt tự giới thiệu, tự hát các bài ca cổ cũng như mới, tiêu biểu cho các sắc thái buồn, vui, day dứt trăn trở, và cả trào phúng... của ca Huế: Nước non ngàn dặm (hò Mái nhì, Nam bình), Lý chuồn chuồn (Lý Tiểu Khúc), Biết ai thầm đưa (Tương tư khúc), Vè nói láo (các bài này đều có bản dịch tiếng Anh của nhà thơ Nguyễn Bá Chung phát tận tay người nghe. Cuộc nói chuyện trở thành cuộc tâm sự, vui vẻ bạn bè trước diễn giả. “Chưa từng có ai tới nói chuyện hấp dẫn như Võ Quê!”, nhà thơ Nguyễn Bá Chung gật gù thán phục.
Trước đó, chiều 29/6/2016, nhà thơ Võ Quê đã có buổi giới thiệu tập thơ song ngữ Anh - Việt Lục bát Côn Đảo (Nxb. Thuận Hóa). Tập này gồm 10 bài thơ lục bát của nhà thơ Võ Quê viết trong thời gian bị tù ở Côn Đảo (1972) do nhà thơ Fred Marchant và nhà thơ Nguyễn Bá Chung (cả hai ông là hai trong những người sáng lập WJC) dịch 10 bài thơ này ra tiếng Anh. Trong tập sách còn có bài viết xuất sắc của Fred Marchant, Võ Quê, sông núi và khúc bi ca Quảng Trị. Đây là bài tham luận tại Hội nghị giới thiệu văn học Việt Nam ra thế giới lần thứ 3, năm 2015, có đại diện nhà văn của hơn 40 nước tham dự, mà tôi cho rằng đây là một trong vài ba bài tham luận hay nhất của cuộc Hội thảo. Bài viết nói tới ngọn nguồn vì sao từ một sĩ quan Quân cảnh Mỹ chống chiến tranh Việt Nam vì triết lý sống lương thiện, ông đã “phải lòng” mảnh đất này, thân thiết với nhân dân này. Chính là từ những vần thơ máu thịt trong ngục tù này, chính là từ giọt nước ngọt lành của đêm sông Hương, chính là những làn điệu, khúc ca dịu dáng, trăn trở, da diết... này. Những khúc ca mà ngay từ mùa xuân cách đây gần 20 năm, tôi và con gái đã nghe dìu dặt trong nhà ông vang ra tận cổng khi vợ chồng ông mời chúng tôi tới thăm như một sự chia xẻ nỗi bất hạnh của con gái tôi vừa bị tai nạn và chính các anh đã vận động đưa con gái tôi qua đây chữa trị. Những bản ca Huế này ông đã mua từ Huế đem về và ông nói, ông đã “phải lòng” ca Huế từ lần đầu nghe được trên dòng sông Hương với Võ Quê. Cùng với Võ Quê là Fred Marchant, Nguyễn Bá Chung và tôi, người viết lời giới thiệu cho tập sách (cháu Diệu Linh dịch bài viết của tôi), bìa là tranh Bửu Chỉ. Việc có đủ những gương mặt thân thiết với Võ Quê trong tập sách đã nói lên sự quý mến của mọi người đối với nhà thơ - ca sĩ nhân dân này). Cứ mỗi bài thơ Võ Quê đọc hoặc ngâm lên đều được Fred Marchant xúc động đọc lại bằng bản dịch tiếng Anh.
Tập thơ này, đầu năm nay, chúng tôi đã đem ra tận Côn Đảo 200 bản tặng cho Bảo tàng Côn đảo, cũng là sự cảm ơn của chúng tôi đối với bao liệt sĩ, bao chiến sĩ đã hy sinh, đã đổ máu vì phẩm giá Dân tộc, vì Độc lập của Tổ quốc. Chúng tôi nói với Fred Marchant và Nguyễn Bá Chung rằng, chúng tôi đã nói với Côn Đảo rằng, Fred Marchant và Nguyễn Bá Chung sẽ ra Côn Đảo để cúi chào những con người đã làm nên hòn đảo vĩ đại này. Fred và Chung đã hứa và ôm chặt chúng tôi.
Boston ngày 4/7/2016
T.N.V
(TCSH330/08-2016)
Có nhiều khi trong đời, “trôi theo cõi lòng cùng lang thang” như Thiền sư Saigyo (Nhật Bản), bất chợt thèm một ánh lửa, một vầng trăng. Soi qua hương đêm, soi qua dòng văn, soi qua từng địa chỉ... những ánh lửa nhỏ nhoi sẽ tổng hợp và trình diện hết thảy những vô biên của thế cuộc, lòng người. “Trong mắt tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã là ánh lửa ấy, địa chỉ ấy.
1. Kawabata Yasunari (1899 -1972) là một trong những nhà văn làm nên diện mạo của văn học hiện đại Nhật Bản. Ông được trao tặng giải Nobel năm 1968 (ba tác phẩm của Kawabata được giới thiệu với Viện Hoàng gia Thụy Điển để xét tặng giải thưởng là Xứ Tuyết, Ngàn cách hạc và Cố đô).
(Thơ Đỗ Quý Bông - Nxb Văn học, 2000)Đỗ Quý Bông chinh phục bạn hữu bằng hai câu lục bát này:Đêm ngâu lành lạnh sang canhTrở mình nghe bưởi động cành gạt mưa.
Thạch Quỳ là nhà thơ rất nhạy bén trong việc nắm bắt thông tin và chóng vánh tìm ra ngay bản chất đối tượng. Anh làm thơ hoàn toàn bằng mẫn cảm thiên phú. Thơ Thạch Quỳ là thứ thơ có phần nhỉnh hơn mọi lý thuyết về thơ.
Kỷ niệm 50 năm ngày mất nhà văn Nam Cao (30.11.1951-30.11.2001)
Có một con người đang ở vào cái tuổi dường như muốn giũ sạch nợ nần vay trả, trả vay, dường như chẳng bận lòng chút nào bởi những lợi danh ồn ào phiền muộn. Đó là nói theo cái nghĩa nhận dạng thông thường, tưởng như thế, nơi một con người đã qua "bát thập". Nhưng với nhà thơ Trinh Đường, nhìn như thế e tiêu cực, e sẽ làm ông giận dỗi: "Ta có sá gì đi với ở".
Nhà thơ Trinh Đường đã từ trần hồi 15g10’ ngày 28.9.2001 tại Hà Nội, thọ 85 tuổi. Lễ an táng nhà thơ đã được tổ chức trọng thể tại quê nhà xã Đại Lộc huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng , theo nguyện vọng của nhà thơ trước khi nhắm mắt.
Phan Ngọc, như tôi biết, là người xuất thân trong gia đình Nho giáo, đã từng làm nghề dạy học, từ năm 1958 chuyển sang dịch sách, là người giỏi nhiều ngoại ngữ. Hiện nay, ông đang là chuyên viên cao cấp của Viện Đông Nam Á (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia).
Có những con người mà ta chỉ gặp một đôi lần trong đời để rồi mãi nhớ, mãi ám ảnh về họ. Với tôi, nhà văn Trần Dần là người như vậy.
Trước tình hình số tập thơ được xuất bản với tốc độ chóng mặt, người ta bỗng nhiên cảm thấy e ngại mỗi khi cầm một tập thơ trên tay. E ngại, không phải vì người ta sợ nhọc sức; mà e ngại vì người ta nghĩ rằng sẽ phải đọc một tập thơ dở! Cảm giác ấy xem ra thật là bất công, nhưng thật tình nó quả là như vậy.
Những năm từ 1950 khi học ở trường trung học Khải Định (Quốc học Huế), tôi đã đọc một số bài thơ của Dao Ca đăng trên một số tờ báo như Đời mới, Nhân loại, Mới, Thẩm mỹ...
Tôi đến tìm ông vào một buổi sáng đầu đông, trong căn nhà ngập tràn bóng tre và bóng lá. Nếu không quen ắt hẳn tôi đã khá ngỡ ngàng bởi giữa phồn hoa đô hội lại có một khu vườn xanh tươi đến vậy!.
LTS: Rạng sáng ngày 11-7-2001, Toà soạn nhận được tin anh Đoàn Thương Hải - hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, sau một cơn đột quỵ, mặc dù đã được gia đình, bạn bè và các thầy thuốc Bệnh viên Trung ương Huế tận tình cứu chữa nhưng không qua khỏi, đã rời bỏ chúng ta an nhiên về bên kia thế giới!Tạp chí Sông Hương - Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế xin có lời chia buồn sâu sắc tới gia quyến nhà văn.Sông Hương số này xin giới thiệu hai bài thơ cuối cùng của anh được rút ra từ tập thơ chép tay lưu giữ tại gia đình.TCSH
Thơ Đặng Huy Giang xuất hiện trên thi đàn đã nhiều năm nay; song thật sự gây ấn tượng với bạn đọc phải kể đến một vài chùm thơ mà báo Văn nghệ đăng tải trên trang thơ dự thi 1998 - 2000; đặc biệt sau đó anh cho ra mắt bạn đọc hai tập thơ một lúc: Trên mặt đất và Qua cửa.
Có lẽ với phần lớn không gian thơ Phan Trung Thành, làm thơ là trò chuyện ân tình với những bóng dáng cũ, thuộc về quê nhà.
Trong bài viết điểm lại văn học năm 2000, sự kiện và bình luận, tôi có nêu hai tác giả trẻ, cùng là nữ, cùng có tác phẩm đáng chú ý trong năm, một người tập truyện, một người tập thơ. Người thơ là Vi Thùy Linh.
(Đọc “Gặp lại tuổi hai mươi”(*) của Kiều Anh Hương)Ngay bài thơ in đầu tập “Vùng trời thánh thiện” có hai câu đã làm tôi giật mình, làm tôi choáng ngợp: “Những lo toan năm tháng đời thường Như tấm áo chật choàng lên khát vọng”
đầu tháng 4 năm ngoái, sau khi tuần báo “Văn nghệ” của Hội Nhà văn Việt Nam đăng truyện ngắn dự thi “Quả đồng chùy tóc bện” của Trần Hạ Tháp - một bút danh “mới toanh” trên văn đàn, tôi ghé tòa soạn “Sông Hương” hỏi nhà văn Hà Khánh Linh:- Chị biết Trần Hạ Tháp là ai không? Tác giả chắc là người Huế...
Trương Văn Hiến có sở học phi thường và mang trong người một hoài bão lớn lao: an bang tế thế bình thiên hạ.
(Qua “Sau tách cà phê” của Nguyễn Trác, Nhà Xuất bản Hội Nhà văn, Hà Nội, 2000.)1- Sau năm năm từ “Chiếc thuyền đêm” (năm 1995), hình như “đến hẹn lại lên”, nhà thơ Nguyễn Trác lại ra mắt bạn đọc tập “Sau tách cà phê”.