Nhà thơ Trần Ninh Hồ - người lãng tử cuồng si và đắm khát

16:02 16/03/2009
BÙI ĐỨC VINH            (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.

Tập thơ “Cho người tôi thương nhớ” là giai điệu nồng nàn dâng tặng cho những cuộc đời phong trần dầu dãi. Chỉ có kẻ quân tử mới dám nói một lời yêu mãnh liệt và tha thiết như thế, mới liều lĩnh dám rong chơi với nẻo trăng thề. Nhà thơ Trần Ninh Hồ có lúc quay đi rồi ngoảnh lại chiêm nghiệm những mất mát khổ đau về tình đời xao xót nguôi ngoai:
                        Hình như là tiếng sáo
                        Sinh ra trước mũi tên
                        Hình như là ngọn giáo
                        Sinh ra sau cây đàn
                                    (Hành trình1)
Lặng lẽ mà sôi trào, cô đơn cùng cực đến bốc cháy. Có phải thơ gánh trên mình cuộc hành trình dằng dặc những mất mát đỗ vỡ mê mải âm thầm. Tìm trong thơ anh, người ta tìm thấy sự khai phá niềm đau tột đỉnh của mọi bến bờ. Ôi! Khi anh bàng hoàng thức tỉnh trong một sự thật nghiệt ngã đau lòng:
                        Ngỡ chỉ có quyền uy, đá và trận mạc
                        Nơi đá tạc ngai vua, đá hoá long sàng
                        Ai biết được một ngày đá giật mình ngơ ngác
                        Đẫm hoàng bào nước mắt một tình yêu
                                                            (Động đá Hoa Lư)
Ngôn ngữ thơ anh giàu nhạc điệu như tiếng thở nhẹ mà sao có niềm đắng đót ẩn nấp phía sau những câu chữ bồi hồi. Tưởng chừng có một cơn áp thấp nương náu đòi nổ tung trong anh. Đôi khi ngợp gió cuốn lốc làm thành cơn bão phía cánh rừng trầm tư, anh không ồn ào lớn tiếng tuyên ngôn mà chỉ im ắng bền bỉ khơi dậy dòng nước mát thi ca từ bến sông tâm hồn đặc quánh niềm đau phù sa trầm tích nhân thế. Tôi đang nghe lời hổn hển dưới chiều của anh-kẻ nguyện làm chứng nhân cô đơn cùng lá:
                        Ta đi trong cõi vô tình ấy
                        Trời chẳng mù sương, mắt bỗng nhoà
                                                            
(Cõi vô tình)
Anh lãng tử khi biết chỉ mình em với gió. Chợt luồng tâm tư thổi ào ạt về náo động cõi riêng anh.
                        Và nhà thơ - kẻ sau trót tìm em
Băng qua cả thiên đàng và trần thế
Qua địa ngục của tận cùng quạnh quẽ
Đem tận cùng đơn lẻ tặng riêng em
                                                (Giao cảm)
Cái thi tứ đập nhức buốt lồng ngực nơi anh sao nghe có tiếng đay nghiến vò xé. Phải chăng yêu-kẻ lãng tử là chịu nhiều thiệt thòi nhất:
                        Tôi yêu em còn em không yêu tôi và ngược lại
                        Nhưng những vết hằn lửa cháy, khác nhau đâu
                                                                        (Có thể)
Ngọn gió hương xưa váng vất thổi se se trên vai người lữ thứ. Trần Ninh Hồ rót rượu tri âm vào đêm trắng mà khao khát trần tình: “tôi dám yêu như họ cả cuộc đời”. Liều lĩnh quá chàng thi sĩ đa tình ơi:
                        Người con gái ta yêu sẽ là người hát hay nhất
                        Như giọng mẹ hát ru từ thủa ấu thời
Nhưng mẹ đã ra đi. Còn em thì chưa tới
Nên suốt đời ta hoá trẻ mồ côi
                                                (Mồ côi)
Lá bùa ý nghĩ đang bay theo nỗi vô vọng hoang mang. Và giờ đây lại sốt ruột hổn hển đợi chờ.
                        Hỡi người thương mến của ta
Có nghe không nhỉ lời ca tâm tình
Thơ ta in mãi bóng hình
Như dòng sông biếc lung linh ánh trời
(Hỡi người thương mến của ta)
Giữa nẻo hồng trần lạc lầm, bụi bặm này, thơ còn là tiếng gọi yêu thương dìu dặt với cây đàn ngây dại của trái tim.
                        Sau bao năm về chung sống cùng nhau
                        Ai đó chúc ta xuân này trẻ lại
                        Tình yêu ơi có sống cùng mãi mãi
                        Cho ta tin lời chúc ấy cho mình
                                                            (Trước lời chúc mùa xuân)
Tôi rất trân trọng và nể phục những câu thơ đầm đìa nhân nghĩa day dứt kiểu như này ở Trần Ninh Hồ.
                        Và bóng rừng chiều nay ơi, sao giống lạ
                        Cũng nắng thắm vòm cây và bụi đỏ chân trời
Chỉ riêng khác một điều em ở đâu xa quá
Xa như cái ngả đường rừng chiều qua suốt cuộc đời tôi
(Một ngã đường chiều)
Tha thiết khẩn cầu trước ngôi đền linh thiêng của tình yêu. Mà tình yêu đôi khi là thứ bùa mê, là tín ngưỡng:
                        Một lời thôi, một lời thôi
                        Cho vơi thương nhớ cái người nhớ thương
                                                                        (Nhớ thương ơi)
Hình ảnh em - người con gái kiêu sa dịu dàng và trong suốt hiện lên trong ký ức chập chờn trắng dải lụa chiêm bao. Hình như đã hơn một lần làm anh lỗi nhịp tơ vương. Bỗng nhiên thơ anh lại trở nên lãng đãng khói sương giăng núi mờ mịt nẻo hồn người.
                        Em bảo chiều em không lại
                        Ngày mai anh được tự do
                        Ôi chưa bao giờ tôi thấy
Tự do buồn đến thế này
(Nghịch lý chiều)
Gấp lại tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”  mà sao vẫn còn thòm thèm dư vị cay cay trên sống mũi của mình. Ngọn sóng lòng thi ca đang trào dâng, trỗi dậy phía cô đơn thăm thẳm không cùng mà chỉ có kẻ lãng tử cuồng si đắm khát mới hiểu nổi. Những câu thơ của anh đã cho tôi những giây phút lãng mạn rất con người được yêu thương, giận hờn, mất mát, xẻ chia, day dứt. Đọng lại trong tôi nỗi ngổn ngang của vệt khói trắng tiếc nuối ngậm ngùi. Chẳng biết nhà thơ Trần Ninh Hồ đã bao lần như thế này:
                        Những con tàu ngày một đúng giờ hơn
                        Đưa người đi, đón người về, mãi mãi
                        Riêng có một tàu chưa một lần trở lại
                        Là con tàu ngày ấy tiễn em đi
                                                         (Có một con tàu)
    B.Đ.V
(197/07-05)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HOÀNG KIM DUNG      (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập  truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)

  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...

  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?

  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...

  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.