Nhà thơ Phùng Quán với sự tích của một bài thơ

11:02 21/04/2008
Đầu những năm 61, Phùng Quán về lao động tại nông trường Thắng Lợi, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá. Quán ở đội 6 khai hoang, tôi ở đội canh nông Ngọc Ách từ trước.

Bấy giờ Quán chưa ăn mặc như sau này, thường là quần thợ, áo lính đã bạc màu, chân dận dép lốp, đầu chụp mũ cối sơn màu lá cây, dáng bộ hom hem, chỉ có đôi mắt luôn mở to, sáng ngời đầy yêu thương và tin cậy.
Sáng chủ nhật hàng tuần (nếu được nghỉ), chúng tôi lại gặp nhau, thường thì Quán đến chỗ tôi. Đôi tuần có cả Phùng Gia Lộc, giáo văn từ bắc sông Chu lên chơi. Trong ba chúng tôi Lộc ít tuổi nhất, nhưng được xếp vào hàng trưởng thượng về tư cách công dân. Ôi! nói là gặp để chơi, sao lắm lúc nhìn nhau thầm ứa nước mắt!
Vào chủ nhật nọ, Quán vội tìm tôi báo cái tin rất ngộ: Quán đã gặp một cây mai vàng tại khu khai hoang. Chuyện khó tin, mai vàng mọc trên đất Bắc. Để kiểm chứng, chúng tôi cùng trực chỉ đến nơi.
Trước mắt tôi bạt ngàn cây cối bị triệt hạ; luồn lách hồi lâu, Quán dừng lại trước một thân cây đã bị chém ngang thân. Quán vừa chỉ tay vừa nói: “Chắc có một loài chim nào đó, ngậm hạt mai bay từ Nam ra Bắc đến đây đã cùng, chim vùi trong đất, hạt đâm chồi đứng dậy thành cây” (đại ý). Tôi phát nổi da gà trước sức tưởng tượng của bạn tôi. Vậy, chuyện đúng, sai của một loài cây hà tất tranh cãi... Chỉ còn  vang vọng nhịp đập từ những trái tim của chiến sĩ miền đang hướng về quê hương.
Một quầng tối đi qua mắt Quán, Quán đứng gục đầu trước thân cây, bật lên tiếng nấc:
“Chiến sĩ miền đi khai hoang
Lỡ tay chém đổ góc mai vàng
Anh kêu đau xót chao trời đất!
Tôi đã chém nhầm cả quê hương
Rồi anh đứng lặng trước gốc mai
Mắt sầm tối lại lệ muốn rơi
Một gốc mai vàng anh đau thế
Huống gì miền Nam đổ máu tươi
35 năm qua, lúc Quán còn sống, tôi chưa lần nào nghe Quán nhắc lại bài thơ trên, trong lúc có bài Quán đọc đi đọc lại cả chục lần. Quán đã quên sao? Liệu chị Trâm vợ Quán còn nhớ chăng?
Đêm nay, nhớ về thuở xa xăm bỗng lòng chẳng yên, tôi bật đèn nhìn quanh, bỗng gặp đôi mắt Quán nhìn tôi chằm chằm.
 Trong đêm vắng lạnh, tôi nghe văng vẳng đâu đó tiếng Quán đọc thơ. Ảo  cảm dẫn ngược tôi quay về cõi xa xưa, gợi cho tôi nhớ lại từ sắc diện đến khẩu hình của Quán lúc buông câu nhả chữ trước gốc cây mà Quán gọi là mai vàng. Trong đầu tôi những con chữ chênh chao nhảy múa, lần lượt hiện ra từng câu một, tôi liền cầm bút ghi lại bài thơ trên, không thêm bớt thừa thiếu (nói có vong hồn bạn tôi trước mặt).
Bài viết này, góp nén nhang lòng cận ngày giỗ của nhà thơ gan-ruột, người con của đất Mẹ Cố Đô, thi sĩ Phùng Quán.
                                                      Nha Trang-Huế ngày đầu thu năm Canh Thìn


TÔN PHONG
(nguồn: TCSH số 143 - 01- 2001)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • VƯƠNG HỒNG HOAN

    "Trăng Thương Bạc" là tập thơ của 47 hội viên của câu lạc bộ Hương Ngự do Nhà xuất bản Thuận Hóa in kỷ niệm lần thứ 25 ngày giải phóng Huế.

  • NGUYỄN ĐĂNG MẠNHNguyễn Khải ở trong Nam, ít khi tôi được gặp. Tôi rất thích nói chuyện với anh. Đúng ra là tôi thích nghe anh nói.

  • PHẠM XUÂN HÙNG(Về cuốn Đọc văn - Tiểu luận - Phê bình của Phạm Phú Phong, NXB Thuận Hóa, 2008)

  • HÀ VĂN LƯỠNGChingiz Aitmatốp thuộc trong số các nhà văn lớn được độc giả nhiều nước trên thế giới biết đến. Tác phẩm của ông thể hiện những vấn đề đạo đức nhân sinh, nhân loại. Ngoài việc sử dụng các đặc điểm thời gian, không gian nghệ thuật, cấu trúc, giọng điệu tác phẩm... nhà văn còn đưa huyền thoại, truyền thuyết vào tác phẩm như là một thi pháp biểu hiện mang tính đặc trưng của ông.

  • TÔ NHUẬN VỸ(Nhân đọc một số bài tranh luận về cuốn THƠ ĐẾN TỪ ĐÂU)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊBộ trường thiên tiểu thuyết “Sông Côn mùa lũ”(*) của nhà văn Nguyễn Mộng Giác, được bạn đọc chú ý trước hết vì bề dày 4 tập 2000 trang với nhân vật trung tâm là người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ; sau nữa, đây là tác phẩm văn học dày dặn nhất của một Việt kiều được xuất bản trong nước.

  • ĐỖ NGỌC YÊN…Thơ Hoàng Trần Cương là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa những chất liệu, hình ảnh và ngôn ngữ của đời sống, với sự đào sâu những suy tư, khát vọng sống của con người và một vùng quê mà anh đã nặng nghĩa sinh thành...

  • THỦY THANHCơn đại hồng thủy đầu tháng 11 năm 1999 được coi như "bản tổng kết thủy tặc" đầy bi tráng của thiên nhiên trong thế kỷ 20 đối với mảnh đất Thừa Thiên Huế. Nó đã gây ra nỗi kinh hoàng, đau thương, mất mát to lớn và cũng để lại không ít những hệ lụy nặng nề cho con người ở nơi đây. Và cũng chính nó - cơn lũ chưa từng có này - đã đi vào lịch sử.

  • BẾ KIẾN QUỐCNăm ấy, vào quãng mùa hè 1982, khi đang trực Ban văn xuôi của báo Văn Nghệ, tôi nhận được một bản thảo truyện ngắn kèm theo lời nhắn: “ Cái truyện này rất quan trọng đối với tôi. Rất mong được tòa soạn đọc kỹ và cho ý kiến. Mấy hôm nữa tôi sẽ quay lại”.

  • THÁI DOÃN HIỂUNgô Văn Phú là thi sĩ của đồng quê. Anh có thể viết nhiều đề tài như xây dựng, chiến tranh, lịch sử, tình yêu..., nhưng như lá rụng về cội, ngược về nguồn, Ngô Văn Phú trở lại nơi làng quê yêu dấu với một tình yêu bẩm sinh, yêu đến tận cùng gốc rễ như Nêruđa đã viết.

  • MAI VĂN HOANTrong số bạn bè cùng lứa thì Ngô Minh bước vào làng thơ muộn màng hơn cả. Nếu Lâm Thị Mỹ Dạ được chú ý ngay khi còn ngồi trên nghế nhà trường, Hải Kỳ có thơ in trên báo Văn nghệ những năm 69,70 thì Ngô Minh vẫn chưa hề có ai hay biết.

  • HOÀNG VŨ THUẬTCó những bài thơ đọc lên và bắt gặp ngay cái đẹp trong từng câu chữ. Lại có những bài thơ đọc đi đọc lại thấy hay mà không dễ gì tìm thấy ngay được. Nó như vẻ đẹp của người con gái có duyên thằm. Cái đẹp thầm kín, ẩn náu.

  • HOÀNG VŨ THUẬTTrong một bài thơ viết trên giường bệnh, trước khi mất vài hôm Thanh Hải tâm sự:     Ta làm con chim hót     Ta làm một cành hoa                                   Ta nhập trong hòa ca                                   Một nốt trầm xao xuyến                                          (Mùa xuân nho nhỏ)

  • Tiểu thuyết "Vạn Xuân" (Dix mille Printemps) của nữ văn sĩ Pháp Yveline Féray viết về cuộc đời Nguyễn Trãi và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn dày trên 1200 trang, do Nguyễn Khắc Dương và một số cộng tác viên dịch, do Nhà xuất bản Văn học in năm 1997 đã được độc giả Việt Nam đón nhận nồng nhiệt.

  • PHAN VĂN CÁCTuy Lí Vương Nguyễn Miên Trinh (1820- 1897) là con thứ 11 vua Minh Mệnh triều Nguyễn, tự là Khôn Chương, lại có tự là Quý Trọng, hiệu là Tĩnh Phố (tên ngôi vườn ông ở) lại có hiệu là Vi Dã. Tuy Lí Vương là tước phong cuối cùng của ông (trước đó từng có tước Tuy Quốc công năm 19 tuổi).

  • HOÀNG CẦM(Lời Bạt cho tập thơ ĐÓA TẦM XUÂN của Trịnh Thanh Sơn - Nhà Xuất bản Văn học 1999)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTác phẩm đầu tay của tôi - tập ký sự “Vì sự sống con đường” (NXB Thanh Niên, Hà Nội, 1968) viết về những đồng đội của tôi trong cuộc chiến đấu anh hùng bảo vệ tuyến đường 12A lên đèo Mụ Dạ, một đoạn đường trọng yếu trong hệ thống đường Hồ Chí Minh giai đoạn 1965-1966, được xuất bản năm 1968, nhưng bài viết đầu tiên của tôi được in trên báo chí khi tôi vừa tròn 20 tuổi và đang học tại Hà Nội.

  • Thanh Hải tên thật là Phạm Bá Ngoãn. Anh sinh ngày 4 tháng 11 năm 1930, quê ở xã Phong Bình, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Nhà thơ mất ngày 15 tháng 12 năm 1980, tại thành phố Huế.

  • LÊ VĂN DƯƠNG1. Quý II năm 2005, Nhà xuất bản Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh phát hành, nói đúng ra là tái bản lần thứ nhất cuốn Tản mạn nhớ và quên của Nguyên Ngọc. Cuốn sách dày 560 trang, tập hợp 15 bài viết của tác giả ở những thời điểm khác nhau nhưng đa phần là vào những năm 90 của thế kỷ XX và một vài năm mở đầu thế kỷ XXI.

  • PHAN CHÍNSau khi làm tròn vai một nhà chính trị, không giống như nhiều người khác, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm rời Thủ đô Hà Nội về Huế sinh sống.