Nhà thơ hậu sinh làng Nghi Tàm

15:43 09/09/2008
XUÂN ĐÀI(Trích ký sự)Trong gần mấy trăm vòng hoa viếng Phùng Quán, có một vòng hoa rất đặc biệt. Đó là vòng hoa của "những người câu cá trộm" cư ngụ ở những làng dọc đê Yên Phụ, chủ yếu là làng Nghi Tàm, xã Quảng An, Hà Nội. Kèm theo vòng hoa là một phong bì phúng điếu mà số tiền gấp đôi tiền phúng điếu của cơ quan Hội Nhà văn Việt .

Nhà thơ Phùng Quán với vợ và hai con

Sáng ấy đội quân câu cá trộm, người ăn mặc chỉnh tề complê cà vạt hẳn hoi, người ăn mặc luộm thuộm, tóc tai bù xù như vừa mới chui dưới hồ lên. Chỉ có một điều giống nhau: đều mang băng tang ở đầu hoặc tay. Đội quân ấy vốn là những người hay cười, hay nói, lấy chuyện tếu táo làm niềm vui, hôm nay khác hẳn, trên những khuôn mặt nhăn nheo, hốc hác, tất cả đều đượm buồn, đượm một vẻ mất mát lớn lao, như mất một người thân trong gia đình, trong gia tộc. Với họ, Phùng Quán thực sự là người anh em ruột thịt. Họ xếp hàng từ ngoài ngõ, theo vòng hoa, chầm chậm bước vào, tập hợp quanh linh cữu thành vòng tròn. Một người lớn tuổi nhất bước lên một bước, dõng dạc hô: “Nghiêm, phút mặc niệm người đồng đội vô cùng thương yêu của chúng ta, nhà văn tài năng, nhà câu cá bậc thầy, bắt đầu!”. Xong phút mặc niệm nghiêm trang, ông rút từ áo bông ra mảnh giấy đánh bằng vi tính. Lời chia buồn của họ có văn bản hẳn hoi, chứ không "nói vo" như một số đoàn của các cơ quan văn hóa. Lời văn không được suôn sẻ, không được hùng hồn. Có lẽ quá xúc động nên giọng đọc của anh đứt quãng, ngọng nghịu, những người đến viếng đang đứng chật cứng quanh linh cữu đều xúc động khi nghe. Anh Phùng Quán ơi, chúng tôi là đồng đội của anh, hầu như tất cả ở đây đều đã làm lính cụ Hồ thời chống Pháp, chống Mỹ, tất cả đều là bạn thân của anh thời câu cá trộm Hồ Tây và hồ Trúc Bạch. Cũng như anh, trên mình chúng tôi có những vết sẹo do bom đạn giặc để lại và những vết sẹo do tuần hồ "ban tặng". Các "chiến sĩ tuần hồ" đánh mình cũng là sai luật, phải không anh Phùng Quán? Nhưng họ có quyền làm sai, còn chúng ta không được quyền làm sai là đánh lại họ dù chân tay cũng ngứa ngáy lắm! Vì đánh họ là ta đi tù, bỏ đói vợ con. Nhà văn Phùng Quán ơi, người bạn ao hồ của chúng tôi ơi, xin báo cho anh một tin mừng, tất cả những người đang đứng quanh chiếc hòm của anh (có tiếng xì xào, sao không dùng từ linh cữu. Có tiếng đáp lại nhỏ nhẻ: thế mới là dân câu trộm chứ). Anh đại diện quệt nước mắt vào ống tay áo, đọc lại: tất cả những người đang đứng quanh linh cữu của anh đã chấm dứt nghề câu cá trộm, trở thành công nhân quốc doanh đánh cá hồ Tây được vào biên chế, có lương hàng tháng, tốt quá Quán ơi! Vĩnh biệt anh, chúng tôi tự hào về người đồng đội của mình, nhà văn, nhà thơ nổi tiếng, được toàn dân yêu mến. Anh đại diện đột ngột dừng lại, hô: “Nghiêm, tất cả đọc thơ!” Gần hai chục con người đồng loạt đọc:
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu
...
Sét đánh trên đầu không xô tôi ngã
Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao khắc văn lên đá!
Dứt lời điếu văn độc đáo của những con người độc đáo có một không hai của thủ đô Hà Nội nghìn năm văn hiến. Tất cả từ ông đại tá đến chị hàng cá, hàng gà vịt, hàng bún riêu... chợ Châu Long, chợ vỉa hè, các nhà thơ, nhà văn, cho đến các em nhỏ tất cả đều sụt sịt, không ai cầm được nước mắt. Có tiếng xì xào bình luận:
- Hay lắm, sâu sắc lắm, dân ao hồ phơi lòng mình ra cho mọi người biết, xúc động hơn các bài thơ của các thi hữu đọc từ hôm qua tới giờ, kể cả bài thơ của Hoàng Cầm.
Lúc đương thời, Phùng Quán rất thích bài thơ của Maiakovsky khóc Lênin: "Em nhỏ nghiêm trang như các cụ già/ Các cụ già khóc như em nhỏ". Phùng Quán ơi, quanh linh cữu bạn, em nhỏ và các cụ già không ai nghiêm trang, tất cả đều khóc, nước mắt như mưa xối xuống Hồ Tây. Thương một đời lao lực, một đời cơ cực, một đời thơ của anh.
Trong những người đang đứng quanh quan tài không biết có anh Trần Văn Tôn, có biệt danh là Tôn Tẩn không? Tôi muốn kể với mọi người về anh, một người mà Phùng Quán yêu mến, mang ơn. Trong các câu chuyện bên chiếu rượu kể về những ngày lận đận của mình, Phùng Quán không bao giờ quên nhắc tới anh.
Anh Tôn mang biệt danh là Tôn Tẩn. Tôn Tẩn là "hắc danh" do trẻ con câu cá trộm làng Nghi Tàm đặt cho. Tẩn là đấm, Tẩn là đánh. Tẩn là vừa đánh vừa đá vừa đạp. Nghe có tợn không các bạn! Đó chỉ là cái bề ngoài, không phải bản chất của anh. Tôn Tẩn là đội trưởng đội tuần hồ, anh có nhiệm vụ chỉ huy đồng đội của mình dẹp loạn đội quân trộm cắp cá mú ở Hồ Tây. Đã bao lần anh nói năng nhẹ nhàng rồi tịch thu cần câu, không thể nào dẹp nổi. Mất cần này sắm cần khác, dây câu và lưỡi câu thiếu gì ngoài chợ, chỉ một con chép cỡ hai ký lô là sắm được mấy bộ đồ nghề. Mất bộ này sắm bộ khác, nhanh như trở bàn tay. Cực chẳng đã anh Tôn mới ra tay, vũ phu đấm đá. Anh biết đánh người là sai, là phạm luật, phạm nội quy của công ty cá đề ra, nhưng phải nói thật, từ ngày anh ra đòn chân tay, nạn câu trộm bớt dần, nhất là trẻ con. Bố mẹ thấy con mình đầu u, mắt thâm quầng, sưng húp, liền bẻ cần câu, không cho con "hành nghề" nữa, mặc dù rất căm giận Tôn Tẩn ra "đòn thù" với con mình. Dân câu trộm, người lớn thì lì đòn hơn và cũng tháo chạy mau hơn, trong đó có Phùng Quán. Nhiều lần Phùng Quán thấy nhục định bỏ "nghề", nhưng bỏ thì lấy tiền đâu mua gạo, mua bột, mua đường sữa cho đứa con gái đầu lòng mới sinh. Kể từ lúc Tôn Tẩn xuất hiện, một lần Quán phát hiện từ xa, kịp quăng cần câu xuống hồ, tháo chạy. Lần thứ hai vì bọn trẻ con không báo động kịp, Phùng Quán bị Tôn Tẩn đạp cho hai đạp ngã dúi xuống hồ. Lần đó Quán chỉ mất bộ đồ nghề câu cá, chứ tính mạng an toàn vì anh là người bơi lặn vào cỡ cá kình. Lần thứ ba Tôn Tẩn đánh theo lối đặc công, nhô từ mép hồ lên. Phùng Quán đang ngồi trên cành cây to vươn là đà mặt nước, không tháo chạy kịp. Tôn Tẩn cầm lấy ngực áo Phùng Quán, thoi hai thoi vào mặt, rồi nhoay nhoay ngực áo định lấy đà xô Phùng Quán vào thân cây. Phùng Quán liền hét: Mày đánh tao bao nhiêu cũng được, đánh đến chết cũng được, tao không thiết sống nữa, nhưng mày giật đứt huy hiệu chiến sĩ Điện Biên tao đang đeo trên ngực là tao ăn thua đủ với mày”. Nghe vậy, Tôn Tẩn nới lỏng tay, Phùng Quán lấn tới: không chơi bằng tay thì tao chơi bằng súng. Bỗng Tôn Tẩn buông tay ra khỏi ngực áo của Quán, hỏi: mày cũng đánh Điện Biên hả? Ở sư nào? Tao là dân 308 đây!
Lúc đó trời nhá nhem tối, lất phất mưa phùn, không rõ mặt người. Tôn Tẩn chỉ nhận ra khuôn mặt lờ đờ hốc hác của Phùng Quán. Phùng Quán bị đòn đột ngột, hoa đom đóm, trước mặt anh Tôn Tẩn chỉ là một cái bóng đen. Tôn Tẩn dịu giọng bảo với Phùng Quán: Tao đánh mày có đau lắm không? Rồi cầm tay lắc lắc, mày là đồng đội của tao lại là cán bộ miền tập kết, nghe giọng mày tao biết không phải Quảng Trị cũng Thừa Thiên, sao mày lại đến nông nổi này hả? Mày tên là gì? Phùng Quán liền đáp như đã quen miệng xưa nay trả lời những người xa lạ: Tao là Trần Lực Điền, con bà Trưởng Giới trong xóm!
- Mày là con đẻ hay con nuôi?
- Con nuôi, làm sao mà có một bà mẹ Hà Nội đẻ ra một đứa con nói tiếng Huế như tao được, hỏi chi mà dị hợm rứa!
Tôn Tẩn hất hàm: Thôi, hôm nay cầm cả cần câu, cả cá về đi.
- Vừa mới xách cần ra ngồi chưa ấm chỗ thì mày đến, đã được con mẹ nào đâu. Mày cứ tịch thu cần câu đi cho tròn nhiệm vụ, tao không cần đứa nào thương hại cả.
Tôn Tẩn sẵng giọng: Mày coi tao là đồ chó à. Nói rồi Tôn Tẩn xọc tay vào túi áo bông lôi ra hộp dầu cù là đưa cho Phùng Quán, dầu con hổ đấy, mang về mà xoa những vết bầm. Cầm cá về đi nó đang vẫy kia kìa, lừa tao không dễ đâu. Cầm về đi, cầm về đi! Vờ vĩnh làm gì. Tao không phải là đồ chó mà bắt lại cá của mày. Nói rồi Tôn Tẩn cúi xuống mép hồ xách cái oi đựng cá lên, phán: con chép này bỏ rẻ cũng cân tám!
Phùng Quán mặt đầy máu, thất thểu xách giỏ cá đi về. Cay đắng ngập lòng.

Gió mùa Đông Bắc giật từng cơn thổi vào làng Nghi Tàm. Những ngôi nhà ngói kín cổng cao tường, yên lành giấc ngủ. Trong ngôi nhà tranh xập xệ, hai mẹ con Phùng Quán thao thức không ngủ được. Mẹ ở trong gian bếp, cái giường một kê sát vách. Gian ngoài, Phùng Quán trải rơm, lót một lớp bao bố, loại bao bố đựng gạo, Quán mua về tháo ra khâu lại làm chiếu, làm chăn. Gió từ Hồ Tây vẫn thốc lên từng cơn. Cột, kèo xà nhà làm bằng tre, kêu răng rắc như sắp đổ ập xuống đè lấy hai mẹ con. Cứ như vậy, cơn bão rớt kéo dài có dễ vài tiếng đồng hồ. Mưa vừa lạnh, gió đã yếu dần bỗng có tiếng gọi bên vách nhà. Cụ Trưởng Giơi vừa hỏi ai đó, vừa lách cửa bước ra.
- Con đây mà, Tôn tuần hồ. Con muốn gặp anh Điền, Điền có nhà không mẹ?
- Mưa gió thế này có việc gì cần mà anh đến vậy?
Cụ Trưởng Giơi liếc nhìn xâu cá gần chục con trên tay Tôn, thầm đoán có dễ đến năm ký lô, gọi với vào nhà: Điền với Lực đâu rồi! có cái tên cha mẹ đặt không chịu nói lại cứ khai tên bậy tên bạ.
Phùng Quán ngồi dậy bật diêm châm đèn Hoa Kỳ. Châm xong, anh vặn to ngọn lửa, rồi cầm đèn bước ra thềm nhà: khách quý đâu, xin mời vào. Người khách vừa cười vừa nói đùa: tên gì mà như sắp sửa đánh nhau, hết Lực lại đến Điền. Có cái tên đẹp đẽ ai cũng biết, vậy mà không xưng ra. Tối hôm qua mà cứ nói ngay là Phùng Quán thì có phải tớ đã không mắc khuyết điểm đánh người. Người đó lại là nhà văn nổi tiếng mới chết chứ!
- Thôi, Tôn Tẩn vào đi – Phùng Quán giục – vào trong khép cửa lại cho bớt gió, rồi ta trò chuyện.
Bà Trưởng Giơi xuống bếp, chui vào cái ổ của mình, nằm lắng nghe "anh tuần hồ" với anh "nhà văn câu trộm" trò chuyện. Bà nghe không bỏ sót một câu nào. Tôn Tẩn bảo từ nay Quán không cần đi câu trộm nữa, đêm đêm Tôn Tẩn sẽ quăng cá qua hàng rào cho Quán, ăn con nào thì ăn, còn nữa thì mang đi bán lấy tiền mua gạo. Phùng Quán một mực từ chối vì biết cá đó là Tôn Tẩn tịch thu của dân câu trộm, phần lớn là trẻ con. Làm vậy hóa ra cướp công của bọn trẻ, dân gian gọi cướp... cơm chim. Chỉ mong Tôn để cho Quán câu thoải mái một chút, Tôn cứ đuổi bắt nhưng đừng đánh là được rồi. Tôn Tẩn lý lẽ nếu vậy thì không được, dân trộm cá Hồ Tây sẽ cho Tôn Tẩn là không công bằng, có cảm tình với Phùng Quán. Hai bên chuyện trò qua lại, phân tích điều hơn lẽ thiệt, cuối cùng Tôn cũng chiều theo ý Phùng Quán là để cho Quán câu và yêu cầu Quán ngồi thật xa bọn trẻ con ra, để khi động thì bỏ chạy là được, trẻ con làng Nghi Tàm nó ranh ma quỷ quái lắm.
Nhận định của Tôn Tẩn quả là chính xác, chỉ mấy hôm là tụi nhỏ "bắt bài" được. Mấy đứa khôn lanh cứ thấy Quán ngồi câu ở đâu là chúng tìm cách ngồi gần, chúng nó nói hụych toẹt là nếu Tôn Tẩn bao che cho chú Quán mà mạnh tay trị chúng là không xong đâu. Phùng Quán thấy khó xử quá, bị tuần hồ ghét cũng khổ, được tuần hồ thương cũng không sung sướng gì hơn. Tôn Tẩn không phải là người nông cạn, anh cũng biết cách cư xử của một người lính từng trải. Từ đó đi tuần nếu là đi bộ dọc bờ hồ, anh lên giọng húng hắng từ đằng xa. Nếu là đi xuồng, vào gần đến bờ là anh khua chèo loạn xị ngậu, báo động cho mọi người biết.
Khi đã tường tận chuyện này, các cụ già làng Nghi Tàm bình luận: thế là từ nay quân trộm cắp đồng lõa với tuần hồ, tuần hồ đồng lõa với trộm cắp. Được vậy là nhờ cái danh của anh nhà thơ nhà văn. Phùng Quán sống cả làng phải nuôi, Phùng Quán chết là làng phải thờ.
Trước sự ưu ái của Tôn Tẩn với dân làng Nghi Tàm, nói hẹp lại với dân câu trộm, lòng Phùng Quán không yên. Anh nghĩ tới dân câu trộm xung quanh hồ ở những làng khác bị dân tuần hồ ra tay không thương tiếc. Hạnh phúc của làng anh là bất hạnh của làng khác. Người làng khác cho rằng dân Nghi Tàm đã mua được Tôn Tẩn bằng tiền. Hễ cứ gặp dân Nghi Tàm là chửi xéo: tiên sư cha quân vô lại, chúng mày cậy có tiền mua chuộc quan nha. Chúng mày cứ liệu hồn, chúng ông không để yên đâu.
Gần nửa đêm một ngày nọ Tôn Tẩn lại mò đến nhà Phùng Quán, gọi Phùng Quán ra thuyền đang neo ở sát bờ. Tôn Tẩn chèo thuyền chở Phùng Quán ra giữa Hồ Tây, cắm sào dừng lại. Trên thuyền chỉ có hai người. Tôn Tẩn bày mâm ra, trên mâm có hai khúc cá luộc, ba khúc cá rán và ở gần đầu thuyền nồi cháo cá đặt trên bếp dầu đang sôi sùng sục. Tôn Tẩn vừa rót rượu ra ly vừa bảo: Tớ cứ thậm thụt ra vào nhà cậu, không tiện cho tớ và cũng không tiện cho cả cậu. Tớ mới nghĩ ra cái sáng kiến chở cậu ra giữa hồ để hai thằng trò chuyện
với nhau cho thoải mái. Tớ muốn biết vì sao cậu bị liệt vào hạng chống Đảng chính phủ. Tớ thấy mặt cậu hiền lành, nói năng nhỏ nhẻ, dáng bộ thư sinh, tớ không thấy một nét nào của dân chống đối. Cảm cái tình người, tình bộ đội cụ Hồ với nhau, Quán trút bầu tâm sự với Tôn Tẩn như trút bầu tâm sự với một văn hữu. Phùng Quán nói ngắn gọn về vụ "Nhân văn Giai phẩm" cho Tôn Tẩn nghe. Quán bị quy là chống Đảng với hai bài thơ đăng báo. Một bài "Chống tham ô lãng phí" đăng ở "Giai phẩm mùa xuân" tháng 03 năm 1956 và bài "Lời mẹ dặn" đăng ở báo Văn – cơ quan ngôn luận của hội nhà văn tháng 09 năm 1957. Có rượu vào, thường là Quán rất bốc. Anh đọc cho Tôn Tẩn nghe lại cả hai bài thơ từ câu đầu đến câu cuối, không sai một chữ. Nghe xong Tôn Tẩn tư lự một lúc, lát sau bảo với Phùng Quán: hai bài thơ đó có gì là phản động đâu, nếu không nói là hết sức xây dựng nữa là đằng khác. Phùng Quán vốn là người rất ít thích thanh minh, anh chỉ thích bộc bạch tâm sự đời mình qua thơ "thơ là mạng sống, là lý lịch đời tôi" như anh từng tuyên bố. Rượu đúng là thiên tài làm cho con người ta hưng phấn, trung thực trước mọi người. Quán liền đọc cho Tôn Tẩn nghe một loạt bài thơ tình của anh chưa đăng ở báo nào. Tôn Tẩn ngồi gật gù, ra chiều tâm đắc lắm. Mà anh tâm đắc thật sự. Tôn Tẩn lấy giấy bút, đề nghị Quán chép cho mấy câu thơ tình vừa đọc, trước hết là chép cho anh bài "Tình yêu và Biển". Phùng Quán bảo hôm này rãnh rỗi sẽ chép tặng riêng Tôn Tẩn một tập. Hôm nay để thời giờ hai thằng uống rượu bù khú với nhau cho sướng cái đã. Tôn Tẩn yêu cầu Phùng Quán đọc lại bài thơ một lần nữa. Với giọng Huế ngọt ngào, lên bổng xuống trầm đúng chỗ. Phùng Quán bắt đầu:
Ngày xưa tôi chưa ra biển bao giờ
Tôi tưởng biển xanh màu xanh phẳng lặng.
Ngày xưa tôi chưa yêu bao giờ
Tôi tưởng tình yêu toàn là mộng.

Ngày nay tôi ra biển rồi
Tôi biết biển sóng to gió lớn.

Ngày nay tôi yêu rồi
Tôi biết tình yêu mộng nhiều, nhiều cay đắng

Không sóng gió to, không còn là biển
Chưa nhiều cay đắng chưa phải tình yêu

Phùng Quán định đọc tiếp vài bài thơ tình khác, song Tôn Tẩn gạt đi, bắt Quán đọc lại bài vừa rồi một lần nữa. Có lẽ anh chàng tuần hồ vừa bị người yêu nghỉ chơi, thất tình, nên mới thích bài thơ đến vậy. Chiều bạn, Phùng Quán vốn là người rất thích chiều bạn, anh vui vẻ đọc lại một lần nữa. Phùng Quán vừa dứt câu cuối cùng bài thơ tình anh làm năm hai mươi tuổi khi mối tình đầu tan vỡ. Tôn Tẩn bảo để anh tự đọc lại. Và Tôn Tẩn đã dõng dạc đọc, không sai một chữ nào.
Qua trò chuyện câu được câu mất, ngất ngưỡng bên chén rượu, Phùng Quán biết được lý lịch trích ngang của Tôn Tẩn. Tôn Tẩn quê ở Thái Bình, cha mẹ được xếp vào loại giàu có nhất nhì ở một làng ven biển huyện Tiền Hải. Gia đình anh vừa có ruộng cho tá điền lĩnh canh vừa có thuyền thuê ngư phủ đánh cá. Ngày cải cách ruộng đất, cha mẹ anh được xếp vào loại tầng lớp trên. Nếu là bần cố nông với học lực hết lớp đệ nhị trường Thăng Long, cộng với bảy năm lính dạn dày chiến trận, Tôn Tẩn đã được một ghế ngồi sang trọng ở cơ quan thuỷ sản, chứ không phải làm cái chân tuần hồ. Tôn Tẩn lại nghĩ khác, anh cảm ơn trời phật đã dun dủi cho anh làm nghề này. Nghề tuần hồ đã giúp anh biết được nhiều thân phận bất hạnh, trong đó có thân phận của những đồng đội lính tráng của anh, thân phận của một số văn nghệ sĩ anh hiểu được qua sự truyền đạt của Phùng Quán. Anh không có ý định viết văn làm thơ mà chỉ yêu văn, yêu thơ. Qua văn thơ anh yêu con người, yêu thương cuộc đời hơn.
Làng Nghi Tàm là "hòn đảo" chạy dài thoai thoải nằm sát bờ đê Yên Phụ, cách đường khoảng gần một trăm mét. Những người già trong làng nói về sự hình thành hòn đảo nhỏ này mỗi người một phách. Có cụ bảo khi con trâu vàng quần thảo vùng đất bây giờ là Hồ Tây nó chừa ra một khoảng đất để nghếch đầu lên nghỉ ngơi. Cái để nghếch đầu lúc nhàn tản của con trâu làm nên cái làng thơ mộng này. Người khác lại cho rằng Nghi Tàm là vùng đất do nhân dân đắp nên mà thành từ thời nhà Lý. Tất cả là truyền thuyết, là chuyện đơm đặt. Chỉ có điều chắc chắn là Bà Huyện Thanh Quan và nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã từng cư ngụ ở đây. Người ta khẳng định chắc chắn như đinh đóng cột, thời cụ Nguyễn Du ghé thăm nữ sĩ Hồ Xuân Hương còn phải đi đò, chứ chưa có con đường để vào như bây giờ. Sau khi lang bạt khắp Hà Nội, Phùng Quán về trú ngụ ở làng Nghi Tàm. Từ đó Nghi Tàm có thêm một nhà thơ hậu sinh.
X.Đ

(nguồn: TCSH số 166 - 12 - 2002)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN QUANG HÀTạp chí sáu tỉnh Bắc miền Trung vẫn duy trì đều đặn hàng năm gặp gỡ giao lưu để cùng tìm cách nâng cao chất lượng tờ tạp chí văn học của địa phương mình. Năm nay, năm 2003 Tạp chí Nhật Lệ đến phiên đăng cai cuộc họp mặt. Khách mời năm nay, ngoài các cơ quan trong tỉnh Quảng Bình, còn có đại biểu của Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương, của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, của tạp chí Diễn đàn, cơ quan ngôn luận của Hội về dự.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOLTS: Nhà thơ Thu Bồn có nhiều duyên nợ với Huế, với Sông Hương. 20 năm trước, trong dịp TCSH ra đời, anh có mặt ở Huế và viết bài thơ “Tạm biệt” - một trong ít ỏi những bài thơ hay nhất về Huế, 20 năm sau, cũng vào dịp TCSH kỷ niệm tròn 20 tuổi thì anh lại ra đi, ra đi trong lời vĩnh biệt!Thương tiếc nhà thơ tài hoa Thu Bồn, Sông Hương xin trân trọng giới thiệu một vài kỷ niệm vaì tình cảm của bạn bè, đồng nghiệp dành cho anh.                                                                TCSH

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNVề chính trị, ông được chữ nhất: Đại biểu quốc hội trẻ nhất (22 tuổi, khóa I năm 1946); Tổng thư ký Hội Nhà văn lâu nhất (1958 – 1989).Về văn nghệ, ông được chữ đa: đa tài, sáng tác nhiều lĩnh vực, và để lại dấu ấn: thơ (Người chiến sĩ, Tia nắng, Sóng reo), văn (Vỡ bờ), kịch (Con nai đen, Nguyễn Trãi ở Đông Quan, Rừng trúc), nhạc (Diệt phát xít, Người Hà Nội), tiểu luận (Mấy vấn đề văn học, Công việc của người viết tiểu thuyết).

  • ...Có 2 từ người Việt Nam hay dùng cho những người làm thuê các công việc cho người khác là: "Lê dương" và "Pắc chung hy". Chả biết từ bao giờ, bạn bè gọi tôi là "Kha lê dương" bên cạnh các biệt hiệu khác như "Kha điên", "Kha voi", "Kha xe bò miên". Là gì thì cũng vẫn là Kha. Thiếu em ư? Đúng ra là tôi không thể sống thiếu tình yêu như một câu thơ tôi đã viết: "Điều khốn nạn là không thể nào khác được - không thể không tình yêu, không tin ở con người"...

  • ... Với giới văn nghệ sĩ thừa Thiên Huế, nhà văn Nguyễn Đình Thi là người anh lớn, rất thân thiết và gần gũi qua nhiều năm tháng. Anh là tấm gương sáng trên nhiều lĩnh vực sáng tác, quản lý, hoạt động phong trào... Đã có nhiều tác động tích cực, ảnh hưởng tốt đẹp cho một số cây bút ở Thừa Thiên Huế; đồng thời đã để lại nhiều kỷ niệm đẹp trong đời sống văn học Thừa Thiên Huế.Sự ra đi của nhà văn Nguyễn Đình Thi là một tổn thất lớn đối với nền văn học nghệ thuật nước nhà, để lại cho chúng ta niềm tiếc thương vô hạn.... Sự nghiệp sáng tạo văn học nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Đình Thi vẫn sống mãi với chúng ta!                                 (Trích điếu văn của nhà thơ Võ Quê)

  • ĐÀO DUY HIỆPGiáo sư, nhà giáo ưu tú Đỗ Đức Hiểu đã không còn nữa.Đã vĩnh biệt chúng ta một nhà sư phạm hiền từ, một nhà khoa học khiêm tốn và có nhiều phát hiện, một con người đầy lòng nhân ái, tin yêu cuộc sống và suốt đời đã sống vì cái đẹp của văn chương, nghệ thuật. Mười bảy giờ bốn mươi nhăm phút ngày 27 tháng 2 năm 2003 đã là thời khắc đó – cái thời khắc đã chia cách hai thế giới từ nay âm dương cách trở giữa giáo sư Đỗ Đức Hiểu với chúng ta. Ông đã để lại sau mình một cuộc đời dài nhiều ý nghĩa.

  • NGUYỄN HOÀNGTrong cuộc đời 83 năm của mình, bác sĩ Nguyễn Khắc Viện (BS.NKV) không chỉ một lần tình nguyện đem cuộc đời mình làm... vật thí nghiệm để có được một kết luận khoa học. Lần đầu, nửa thế kỷ trước, tại Pháp, sau 7 lần lên bàn mổ, cắt mất hẳn lá phổi trái, 1/3 lá phổi bên phải và 8 xương sườn (do bị lao mà thời đó chưa có thuốc chữa đặc hiệu), thấy rõ y học phương Tây không cứu được mình, BS. NKV đã vận dụng phương pháp Yoga của Ấn Độ và khí công của Trung Quốc trên cơ sở phân tích sinh lý, tâm lý và giải phẫu cơ thể con người, tự cứu sống mình, hình thành nên phương pháp “dưỡng sinh Nguyễn Khắc Viện” ngày nay.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNVào dịp Tết Bính Thìn, Tết dân tộc cổ truyền đầu tiên sau giải phóng, Viện Đại học Huế nhận được một bưu thiếp chúc Tết đặc biệt của vị Thủ tướng kính mến thời đó - Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Nhà trường đã cho viết to bức thư của Thủ tướng viết sau cánh thiếp lên một tấm bảng lớn, trân trọng đặt tại Hội trường của Viện Đại học Huế.

  • TÔ NHUẬN VỸTôi có một cái va ly nhỏ dùng để đựng những vật kỷ niệm, những thư từ, những bức ảnh quý nhất của mình. Trong số kỷ vật quý giá đó, có bức thư của anh Tố Hữu gửi tôi và anh Hoàng Phủ Ngọc Tường, tháng 3/1987, kèm theo là bài thơ Nhớ về anh được đánh máy trên giấy Pơ luya vàng nhạt, kiểu chữ ở một cái máy nào đó mà  mới nhìn biết ngay là từ một cái máy chẳng lấy gì làm tốt, để "Kỷ niệm lần thứ 80 ngày sinh mồng 7 tháng 4 của đồng chí Lê Duẩn”.

  • LÊ MỸ Ý ghi                (Trích)Khi tôi đến, hai ông đang ngồi chiếu rượu trong căn hộ chung cư sáu tầng cao ngất ngưởng. Căn phòng như được ghép bằng sách. Trên tường, ảnh Văn Cao đang nâng ly và bức sơn dầu "Tuổi Đá Buồn" Bửu Chỉ vẽ Trịnh Công Sơn dựa vào cây đàn ghita ngóng nhìn vô định. Ngẫu nhiên tôi trở thành người hầu rượu, nói đế cho cuộc đối thoại ngẫu nhiên của hai ông...

  • MAI VĂN HOANThầy giáo dạy văn                                      Tặng Mai Văn HoanHộ tập thể nằm trên gác xépCăn phòng thanh đạm, có gì đâu!Một chồng sách cũ, dăm chai nướcMột chiếc bàn con, một bếp dầu...

  • THANH THẢOThái Ngọc San khác với một số người bạn Huế mà tôi chơi: anh ít nói, ít nói đến lặng thinh, ít nói nhiều khi đến sốt cả ruột. Nhưng nhiều lúc, vui anh vui em, rượu vào lời ra, San cũng nói hăng ra phết. Những lúc ấy, cứ nghĩ như anh nói để giải toả, nói bù cho những lúc im lặng.

  • PHAN HỮU DẬTLTS: GS.TS Phan Hữu Dật là người làng Thanh Lương, xã Hương Xuân, huyện Hương Trà, TT Huế, hiện nghỉ hưu tại Hà Nội. Giáo sư từng là Trưởng ban phụ trách Đại học Văn khoa Sài Gòn (1976), Hiệu trưởng Đại học Tổng hợp Hà Nội (1985-1988). Bài viết dưới đây do Giáo sư đọc trong Lễ kỷ niệm 90 năm ngày sinh của nhà thơ Vĩnh Mai (1918-2008), như một sự tri ân đối với người mà Giáo sư xem như là người thầy, người thủ trưởng, người đồng chí... với những tư liệu mới mẻ và góc nhìn thấu đáo. Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài viết này cùng bạn đọc.

  • NGÔ MINHTác phẩm văn học nghệ thuật là sáng tạo của mỗi tác giả hội viên; đồng thời là thước đo hiệu quả hoạt động của Hội trong một nhiệm kỳ. Nói cách khác, tất cả mọi hoạt động của Hội đều hướng về hội viên, hướng về việc làm sao để có những tác phẩm văn học nghệ thuật chất lượng ngày càng cao. Nếu không thì sinh ra Hội để làm gì?

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀOVà tôi đã rời xa Huế vào những ngày mà chính tôi cũng không muốn một chút nào. Có lẽ, không ai trách được sự sắp xếp và an bài của cuộc sống. Dù rằng Huế đối với tôi là ân nghĩa, là những kỷ niệm khó phai thì rồi cũng phải tự tạ từ. Trong sâu thẳm đáy lòng, khi nhìn những đêm trăng phả xuống thành phố tôi đang sống, tôi lại quay lòng nhớ Huế, dẫu một chút thôi, hơi thở của tôi đã không được đắp bồi bởi Huế.

  • VÕ MẠNH LẬPTôi đọc một bài. Không! Chỉ là một đoạn nhưng vừa đủ ngẫm - mà thú vị. Đó là cô gái với cái tên quen mà lạ. Cô ta phân bày quê chôn nhau cắt rốn xa xa ngoài tê tề. Cha mẹ cô đèo bòng vô ở tại một thị xã miền Trung. Sau cùng cô lại ở Huế học hành, lớn lên, đôi lúc bạn bè xa đến cứ ngỡ cô là Huế ròng.

  • L.T.S: Nhà thơ, nhà báo Thái Ngọc San sinh năm 1947 tại Lệ Thuỷ, Quảng Bình nguyên Thư kí Toà soạn Tạp chí Sông Hương, chuyển công tác qua phụ trách văn phòng liên lạc báo Thanh Niên tại T.T. Huế đã từ trần vào lúc 0giờ 45 phút ngày 25.7.2005 sau một tai nạn giao thông oan nghiệt.Thương tiếc anh, Sông Hương mở thêm trang để bạn bè, đồng nghiệp cùng chia sẻ và thắp nén tâm hươngKhi chúng tôi được tin buồn về anh San thì số báo tháng 8 đã in xong; Tình thế “chữa cháy” này không sao tránh khỏi những bất cập, mong các tác giả cùng quý bạn đọc lượng thứ.

  • L.T.S: Đại hội VHNT Thừa Thiên Huế lần thứ X sẽ được tổ chức vào cuối tháng 8 năm nay. Để đại hội có tiếng nói dân chủ rộng rãi, TCSH xin “dành đất” cho các anh chị hội viên, các bạn đọc quan tâm tham gia ý kiến trao đổi về nghề nghiệp, về hoạt động của Hội, về tổ chức hội v.v...Ngoài các ý kiến đã đăng tải trên số này, chúng tôi sẽ tiếp tục in thêm các ý kiến khác trong số tới

  • ĐÔNG HÀTôi không sinh ra ở Huế, nhưng với tuổi đời chưa quá ba mươi mà đã hơn hai mươi năm sống ở đất Kinh thành, đó cũng một sự gắn bó không thành tên.

  • THU NGUYỆT                (Trích tham luận tại Đại hội VII  Hội Nhà văn Việt Nam)