Nhà thơ Frederick Feirstein

10:13 26/07/2011
…Thuộc dòng dõi Do Thái Đông Âu, Frederick Feirstein sinh ngày 2 tháng Giêng năm 1940 tại New York City, thân phụ và thân mẫu ông có tên là Arnold và Nettie Feirstein…

Chân dung Frederick Feirstein - Ảnh: home.earthlink.net

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if !mso]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]


Frederick Feirstein là kịch tác gia, đã có cả mươi mười hai vở được diễn ở New York. Vở kịch đầu tiên của ông, Simon And The Shoeshine Boy (Simon Và Cậu Bé Đánh Giày) được dàn dựng lần đầu tại Trung Tam Kịch Nghệ Chelsea.

Vở thứ hai của ông, The Family Circle (Trong Vòng Gia Đình) được dàn dựng lần đầu tại Provincetown Playhouse (New York), và sau đó được ấn hành trong loạt sách Modern Classics Series ở Luân-đôn (Nhà xuất bản Davis-Poynter/Harper Collins). Ông còn viết lời thoại và lời nhạc cho ba vở nhạc kịch: The Children’s Revolt (Sự Nổi Loạn Của Những Đứa Trẻ) trong đó ông là đạo diễn và vai chính được trao cho Willem Dafoe, Masquerade (Dạ Hội Hóa Trang), là vở đoạt giải Audrey Wood Playwriting Award, và vở Heroism (Anh Hùng Tính), nhạc của William Harper, được đưa lên sân khấu lần đầu tại Raw Space (New York) bởi Chicago’s Artco năm 2001.

Ông cũng viết kịch bản phim và truyền hình. Ông đã viết Two For One (Hai Cho Một) và Street Music (Nhạc Đường Phố) cho hãng phim David Da Silva (Fame), G. I. Diary cho Cbs, Saturday Night Live với Philip Magdaleny, và buổi ban ngày với Doris Frankel và Doug Marland. 

Frederick Feirstein đã cho xuất bản tám tập thơ. Tập thơ đầu tay, Survivors (Những Người Sống Sót), được Hiệp Hội Thư Viện Mĩ bình chọn là một trong hai Outstanding Books (Sách Xuất Sắc) trong năm. Tập thơ thứ hai của ông, Manhattan Carnival: A Dramatic Monologue (Lễ Hội Manhattan: Độc Thoại Kịch) lọt vào vòng chung kết Giải Pulitzer và được đưa lên sân khấu tại New York, Cambridge và Los Angeles. Tập thơ thứ tư và thứ sáu của ông, Family History (Câu Chuyện Gia Đình), và Ending The Twentieth Century (Chấm Dứt Thế Kỉ Hai Mươi) đoạt giải Quarterly Review Of Literature. Tập thứ năm, City Life (Cuộc Sống Thành Thị) được đề cử Giải Pulitzer. Tập thứ bảy New And Selected Poems (Thơ Mới Và Thơ Tuyển) ấn hành năm 1998. Tập thứ tám của ông, Fallout (Bụi Phóng Xạ) ấn hành năm 2009.

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]Ảnh: word-press.com

Ông đã đoạt được những giải thưởng văn học sau đây: Giải thưởng Thơ của Guggenheim Fellowship, Giải thưởng Thơ của Society of America’s John Masefield, Giải thưởng Thơ của England’s Arvon, và Giải dành cho Kịch nghệ của Rockefeller Foundation’s OADR.

Ông là người đồng sáng lập phong trào Expansive Poetry và là người tạo ra chương trình đọc sách của nhà Barnes & Noble. Tiểu sử của ông được ghi trong Dictionary of Literary Biography và tiểu sử tự thuật của ông được ghi trong Contemporary Authors Autobiography Series.  

Từ điển tiểu sử văn học, về Frederick Feirstein

Là một trong những người sáng lập phong trào thơ Expansive (Mở Rộng/ Chan Hòa), Frederick Feirstein đã bênh vực mạnh mẽ việc tái lập thơ hình thức, thơ tường thuật, và thơ trào phúng trong thi ca Mĩ. Ông cảm nhận rằng đó chính là cách chữa trị nhằm đưa thơ trở lại với mọi người và dứt thơ ra khỏi không khí học thuật ngột ngạt mà ở đó thơ đã héo mòn, chỉ qui chiếu về chính nó, trong suốt nửa thế kỉ vừa qua. Những thi phẩm của ông tập trung vào vẻ đẹp và nét bạo tàn hậu hiện đại của New York City, thành phố quê hương của ông, vào khuynh hướng tính dục đầy ám ảnh của ngành tâm phân học theo phong cách New York cổ điển, và vào vấn đề Do Thái tính trong đồng nhất tính Mĩ. Ý thức căm phẫn nơi ông đã khiến thơ ông tách biệt hẳn với thơ của những đồng nghiệp trong giới học thuật của ông, là những người trầm tĩnh hơn, hướng vào nội tâm nhiều hơn, trong phong trào Thơ Tân Hình Thức. Thực vậy, dù ông được những người trong phong trào xem là một trong những nhà thơ Mĩ quan trọng nhất và độc sáng nhất của phong trào Thơ Tân Hình Thức, nhưng Feirstein kịch liệt bác bỏ uy thế của từ này trên mục tiêu rộng lớn hơn của thơ Expansive. Feirstein, và những người sáng lập trước đây của phong trào thơ Expansive như Dick Allen, Frederick Turner và Wade Newman, thích dùng từ “expansive” để mô tả loại thơ mới đầy sức sống mãnh liệt, không chỉ sử dụng những thể thơ truyền thống như thể xo-nê [thơ 14 câu, mỗi câu 10 âm tiết] và thể anh hùng ca dưới dạng những cặp vần với nhau, mà còn khuyến khích việc tự do mở rộng chủ đề thơ và thúc đẩy sự sáng tạo những bài thơ tường thuật dài hơi, vốn là thành phần chủ yếu trước đây của thơ Anh và thơ Mĩ.

Feirstein nhấn mạnh vào sự đoạn tuyệt dứt khoát và có tính cách mạng đối với những trường phái đã được xác lập của những nhà thơ hàn lâm, là những người củng cố theo cách cứng nhắc cái khái niệm rằng để thực sự là thơ Mĩ, thì chỉ có thể là thơ dưới dạng các câu thơ tự do, nhấn mạnh vào thứ ngôn ngữ bí hiểm, vào tầm quan trọng hàng đầu dành cho những cảm quan của nhà thơ và những cảm nhận cá nhân, so với thế giới bên ngoài vốn chỉ là thứ yếu. Feirstein muốn quay mặt thơ ra bên ngoài một lần nữa, “mở rộng” nó bằng cách từ bỏ những ám ảnh tự yêu mình của những nhà thơ theo trường phái xưng tội và trường phái xem thơ chỉ là Ngôn Ngữ, là những người có chung nét điển hình là không lưu ý tới những mối quan tâm của quần chúng nói chung.

Thuộc dòng dõi Do Thái Đông Âu, Frederick Feirstein sinh ngày 2 tháng Giêng năm 1940 tại New York City, thân phụ và thân mẫu ông có tên là Arnold và Nettie Feirstein. Những năm đầu đời, ông lớn lên trong một căn hộ của cao ốc thuộc dạng hợp tác xã nhà ở, sống chen chúc trong một xóm giềng đông đúc đa sắc tộc ở Lower East Side, New York City.

PHẠM KIỀU TÙNG dịch
(268/06-11)





Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Có nhiều khi trong đời, “trôi theo cõi lòng cùng lang thang” như Thiền sư Saigyo (Nhật Bản), bất chợt thèm một ánh lửa, một vầng trăng. Soi qua hương đêm, soi qua dòng văn, soi qua từng địa chỉ... những ánh lửa nhỏ nhoi sẽ tổng hợp và trình diện hết thảy những vô biên của thế cuộc, lòng người. “Trong mắt tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã là ánh lửa ấy, địa chỉ ấy.

  • 1. Kawabata Yasunari (1899 -1972) là một trong những nhà văn làm nên diện mạo của văn học hiện đại Nhật Bản. Ông được trao tặng giải Nobel năm 1968 (ba tác phẩm của Kawabata được giới thiệu với Viện Hoàng gia Thụy Điển để xét tặng giải thưởng là Xứ Tuyết, Ngàn cách hạc và Cố đô).

  • (Thơ Đỗ Quý Bông - Nxb Văn học, 2000)Đỗ Quý Bông chinh phục bạn hữu bằng hai câu lục bát này:Đêm ngâu lành lạnh sang canhTrở mình nghe bưởi động cành gạt mưa.

  • Thạch Quỳ là nhà thơ rất nhạy bén trong việc nắm bắt thông tin và chóng vánh tìm ra ngay bản chất đối tượng. Anh làm thơ hoàn toàn bằng mẫn cảm thiên phú. Thơ Thạch Quỳ là thứ thơ có phần nhỉnh hơn mọi lý thuyết về thơ.

  • Kỷ niệm 50 năm ngày mất nhà văn Nam Cao (30.11.1951-30.11.2001)

  • Có một con người đang ở vào cái tuổi dường như muốn giũ sạch nợ nần vay trả, trả vay, dường như chẳng bận lòng chút nào bởi những lợi danh ồn ào phiền muộn. Đó là nói theo cái nghĩa nhận dạng thông thường, tưởng như thế, nơi một con người đã qua "bát thập". Nhưng với nhà thơ Trinh Đường, nhìn như thế e tiêu cực, e sẽ làm ông giận dỗi: "Ta có sá gì đi với ở".

  • Nhà thơ Trinh Đường đã từ trần hồi 15g10’ ngày 28.9.2001 tại Hà Nội, thọ 85 tuổi. Lễ an táng nhà thơ đã được tổ chức trọng thể tại quê nhà xã Đại Lộc huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng , theo nguyện vọng của nhà thơ trước khi nhắm mắt.

  • Phan Ngọc, như tôi biết, là người xuất thân trong gia đình Nho giáo, đã từng làm nghề dạy học, từ năm 1958 chuyển sang dịch sách, là người giỏi nhiều ngoại ngữ. Hiện nay, ông đang là chuyên viên cao cấp của Viện Đông Nam Á (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia).

  • Có những con người mà ta chỉ gặp một đôi lần trong đời để rồi mãi nhớ, mãi ám ảnh về họ. Với tôi, nhà văn Trần Dần là người như vậy.

  • Trước tình hình số tập thơ được xuất bản với tốc độ chóng mặt, người ta bỗng nhiên cảm thấy e ngại mỗi khi cầm một tập thơ trên tay. E ngại, không phải vì người ta sợ nhọc sức; mà e ngại vì người ta nghĩ rằng sẽ phải đọc một tập thơ dở! Cảm giác ấy xem ra thật là bất công, nhưng thật tình nó quả là như vậy.

  • Những năm từ 1950 khi học ở trường trung học Khải Định (Quốc học Huế), tôi đã đọc một số bài thơ của Dao Ca đăng trên một số tờ báo như Đời mới, Nhân loại, Mới, Thẩm mỹ...

  • Tôi đến tìm ông vào một buổi sáng đầu đông, trong căn nhà ngập tràn bóng tre và bóng lá. Nếu không quen ắt hẳn tôi đã khá ngỡ ngàng bởi giữa phồn hoa đô hội lại có một khu vườn xanh tươi đến vậy!.

  • LTS: Rạng sáng ngày 11-7-2001, Toà soạn nhận được tin anh Đoàn Thương Hải - hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, sau một cơn đột quỵ, mặc dù đã được gia đình, bạn bè và các thầy thuốc Bệnh viên Trung ương Huế tận tình cứu chữa nhưng không qua khỏi, đã rời bỏ chúng ta an nhiên về bên kia thế giới!Tạp chí Sông Hương - Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế xin có lời chia buồn sâu sắc tới gia quyến nhà văn.Sông Hương số này xin giới thiệu hai bài thơ cuối cùng của anh được rút ra từ tập thơ chép tay lưu giữ tại gia đình.TCSH

  • Thơ Đặng Huy Giang xuất hiện trên thi đàn đã nhiều năm nay; song thật sự gây ấn tượng với bạn đọc phải kể đến một vài chùm thơ mà báo Văn nghệ đăng tải trên trang thơ dự thi 1998 - 2000; đặc biệt sau đó anh cho ra mắt bạn đọc hai tập thơ một lúc: Trên mặt đất và Qua cửa.

  • Có lẽ với phần lớn không gian thơ Phan Trung Thành, làm thơ là trò chuyện ân tình với những bóng dáng cũ, thuộc về quê nhà.

  • Trong bài viết điểm lại văn học năm 2000, sự kiện và bình luận, tôi có nêu hai tác giả trẻ, cùng là nữ, cùng có tác phẩm đáng chú ý trong năm, một người tập truyện, một người tập thơ. Người thơ là Vi Thùy Linh.

  • (Đọc “Gặp lại tuổi hai mươi”(*) của Kiều Anh Hương)Ngay bài thơ in đầu tập “Vùng trời thánh thiện” có hai câu đã làm tôi giật mình, làm tôi choáng ngợp:            “Những lo toan năm tháng đời thường            Như tấm áo chật choàng lên khát vọng”

  • đầu tháng 4 năm ngoái, sau khi tuần báo “Văn nghệ” của Hội Nhà văn Việt Nam đăng truyện ngắn dự thi “Quả đồng chùy tóc bện” của Trần Hạ Tháp - một bút danh “mới toanh” trên văn đàn, tôi ghé tòa soạn “Sông Hương” hỏi nhà văn Hà Khánh Linh:- Chị biết Trần Hạ Tháp là ai không? Tác giả chắc là người Huế...

  • Trương Văn Hiến có sở học phi thường và mang trong người một hoài bão lớn lao: an bang tế thế bình thiên hạ.

  • (Qua “Sau tách cà phê” của Nguyễn Trác, Nhà Xuất bản Hội Nhà văn, Hà Nội, 2000.)1- Sau năm năm từ “Chiếc thuyền đêm” (năm 1995), hình như  “đến hẹn lại lên”, nhà thơ Nguyễn Trác lại ra mắt bạn đọc tập “Sau tách cà phê”.