Tồn tại mấy trăm năm qua, vấn đề i và y trong chính tả tiếng Việt đã được chính quyền thuộc địa Pháp đặt vấn đề cải cách từ đầu thế kỷ XX. Sau 30-4-1975 các cơ quan hữu quan như Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Bộ Giáo dục - Đào tạo cũng có những quy định về vấn đề này, nhiều nhà nghiên cứu cả trong lẫn ngoài nước trước nay cũng đã tìm hiểu và có ý kiến, nhưng vẫn chưa được giải quyết rốt ráo.
Bởi vì chưa ai đặt vấn đề tìm câu trả lời cho câu hỏi “Tại sao trong vần tiếng Việt lại có cả i và y?”. Điều làm người ta bất ngờ là vấn đề chính tả của chữ quốc ngữ Latin này lại có nguồn gốc từ cách đọc chữ Hán tức có liên quan với âm vận học Hán ngữ. Nhà nghiên cứu Cao Tự Thanh (ảnh) với công trình “I và y trong chính tả tiếng Việt” (NXB Văn hóa - Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, 2014) đã làm rõ điều đó.
* PV: Xin anh cho biết tổng quát về cuốn sách?
* Nhà nghiên cứu CAO TỰ THANH: Cách đây gần 30 năm, tôi nhận ra ngoài vài trường hợp viết sai trong chính tả tiếng Việt, những từ thuần Việt đều được viết với i như trái bí con khỉ, củ mì, gà ri, ngựa hí, hỉ mũi… chỉ những từ Việt Hán mới được viết với cả i và y, nên đã nghĩ tới việc tìm nguyên nhân trong mảng từ Việt Hán. Đến nay có điều kiện khảo sát toàn bộ những chữ Hán có phần vần là i/y thì quả nhiên đúng thế. Âm vận học Hán ngữ chia các chữ Hán có phần vần là i/y làm hai loại theo đẳng hô tức bộ vị và đặc điểm phát âm là Tam đẳng Khai khẩu và Tam đẳng Hợp khẩu, trong đó khi chuyển qua ghi bằng chữ quốc ngữ Latin thì những từ có phụ âm đầu là zéro như y (áo), y (chữa bệnh), ý (ý nghĩ), ỷ (dựa cậy) thường viết với y đều thuộc Tam đẳng Khai khẩu. Tóm lại theo logic thì những từ Tam đẳng Khai khẩu ở đây phải được viết với y, những từ Tam đẳng Hợp khẩu phải được viết với i, dĩ nhiên nếu có nguyên âm tròn môi đi trước như huy, truy, thủy thì bất kể là Khai khẩu hay Hợp khẩu cũng phải viết với y. Nhưng từ thế kỷ XVII trở đi thì dòng chính tả ngoại nhập vốn không chấp nhận lối viết kỹ, lý, mỹ giống hệt quy định chính tả hiện nay, còn ở dòng chính tả Việt hóa điều đó lại không được thể hiện nhất quán và liên tục, đây là do lịch sử của chữ quốc ngữ ở Việt Nam dẫn tới. Tuy nhiên, trong lời nói đầu quyển sách, tôi có nói là chỉ nhằm làm sáng tỏ việc tại sao trong vần tiếng Việt lại có cả i và y và tôi nghĩ đã làm sáng tỏ được rồi.
* Nghĩa là nhiều năm qua chính tả tiếng Việt không có nguyên tắc trong việc chuẩn hóa cách viết i/y?
* Chữ quốc ngữ là loại chữ ghi âm, nhưng âm đọc và cách đọc là hai chuyện khác nhau. Người Việt ai cũng hiểu/viết từ ăn như nhau, nhưng người miền Bắc thường nói/đọc là ăn, người miền Trung thường nói/đọc là eng, người miền Nam thường nói/đọc là ăng. Cách đọc mới là quy chuẩn, chứ âm đọc không thể coi là quy chuẩn. Hiện nay nhiều người viết khúc chiết là khúc triết, bánh chưng là bánh trưng chính vì đồng nhất âm đọc với cách đọc đấy. Chữ quốc ngữ được sáng tạo ra từ thế kỷ XVII và chỉ phổ biến trong cộng đồng Thiên Chúa giáo, lúc người Việt Nam đang dùng chữ viết Hán Nôm, khi đó Dòng Sai có viết khác Dòng Tên cũng không hề gì. Nhu cầu chuẩn hóa chính tả ở đây chỉ được đặt ra sau khi người Pháp xâm lược và đô hộ Việt Nam, chữ quốc ngữ từng bước được dùng làm chữ viết chính thức từ Nam tới Bắc. Nhưng lực lượng nòng cốt trong việc phổ biến và chuẩn hóa chữ quốc ngữ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX không bao giờ là những nhà nho học hành có bài bản, các trí thức tân học thế kỷ XX thì căn bản không biết về âm vận học Hán ngữ để hiểu được sự khác biệt về âm trị giữa i và y trong mảng từ Việt Hán, cho dù biên soạn từ điển cũng chỉ ghi nhận âm đọc chứ không ghi nhận cách đọc, chuyện sai đúng do đó phần nhiều là ngẫu nhiên. Sự khác biệt giữa i và y trong mảng từ Việt Hán là khác biệt về âm trị, do cách đọc. Trong thực tế ai cũng nhận ra sự khác biệt ấy trong các trường hợp loại mai - may, thủi – thủy vì y trong may, thủy được phát âm dài hơn i trong mai, thủi. Nhưng theo tập quán phát âm của người Việt thì lý lẽ không khác gì lí lẽ, sự khác biệt nói trên bị xóa nhòa, khó nhận ra hơn.
* Như vậy, anh không tán thành quy định lối viết i/y hiện nay?
* Tôi nghĩ chắc đến nay những người đề xuất các quy định ấy vẫn chưa biết tại sao vần tiếng Việt lại có cả i lẫn y, nên các quy định ấy cho dù có giá trị pháp lý cũng không thể có cơ sở khoa học và giá trị thực tiễn. Không biết nguyên nhân, không rõ quá trình mà cứ can thiệp thì dễ cảm tính hay tùy tiện lắm. Họ quy định những từ có phần vần là i/y không có phụ âm đầu phải viết là y, trẻ con viết đúng những từ Việt Hán như y tế, ý thức thì lại viết sai những từ thuần Việt như béo ị, ầm ì thành béo ỵ, ầm ỳ. Đối với ngôn ngữ đâu có thể cào bằng bừa bãi như thế được.
* Vậy trở đi anh có định viết i/y theo đúng với đẳng hô của âm vận học Hán ngữ không?
* Khi số đông thừa nhận cái sai thì cái vốn đúng sẽ bị coi là sai, nên tôi không thể viết trý thức, by ai cho đúng âm vận học Hán ngữ để trở thành dị dạng về chính tả trước mắt số đông. Nhưng trong giới hạn chấp nhận được như my mục, kẻ sỹ thì tôi sẽ theo nguyên tắc ấy, vì nó nhắc nhở tôi về lòng tự trọng nghề nghiệp.
Nguồn: TƯỜNG VY - SGGP
Dư luận đang lo lắng về việc rớt giá thê thảm của khối C. Khối C đã thật sự bị sĩ tử thẳng thừng từ chối, điều đó cho thấy rằng xã hội đang quay lưng… đằng sau đó có những hệ lụy gì?
Theo định hướng phát triển hiện nay, Huế sẽ là đô thị trung tâm, đô thị hạt nhân giữ vai trò động lực cho Thành phố trực thuộc Trung ương trong tương lai.
Thuở xưa, mỗi làng có một hương ước, nhiều làng có hương ước thành văn nhưng cũng có làng có hương ước bất thành văn.
Khi nhắc đến xứ sở Phù Tang, điều đầu tiên thế giới nghĩ đến là một Nhật Bản thần kỳ, giàu mạnh về kinh tế và điều thứ hai chắc chắn sẽ là sự đối mặt thường xuyên với thảm họa thiên tai.
“Có động đất ở Nhật Bản!” Tôi đang loay hoay xếp lại chồng sách vở ngổn ngang trên bàn thì nghe chồng tôi, giáo sư Michimi Munarushi người Nhật mới về Việt Nam 3 hôm trước báo.
Không có một vùng đất thứ hai nào trên dải đất hình chữ S của Việt Nam có vị trí hết sức đặc biệt như Huế. Nơi đây, từ 1306, bước chân Huyền Trân xuống thuyền mở đầu cho kỷ nguyên mở nước về Nam, Thuận Hóa thành nơi biên trấn.
I. Đặt vấn đề 1.1. Năm 1945, sau khi nhà Nguyễn cáo chung, một số giá trị văn hóa phi vật thể của Huế không còn giữ được môi trường diễn xướng nguyên thủy, nhưng những gì nó vốn có vẫn là minh chứng độc đáo về sự sáng tạo văn hóa của dân tộc Việt Nam.
Đưa Thừa Thiên Huế trở thành thành phố trực thuộc Trung ương trong vài năm tới đã trở thành quyết tâm chính trị của cán bộ đảng viên và nhân dân Thừa Thiên Huế.
Thăng Long - Hà Nội, thủ đô, trái tim của cả nước, qua ngàn năm phát triển, đã trở thành biểu tượng của nền văn hiến Việt Nam, là niềm tự hào của cả dân tộc.
Sau khi phục dựng thành công lễ tế Nam Giao và lễ tế Xã Tắc trong những năm qua, thiết nghĩ việc tái hiện lễ tế Âm Hồn 23.5 ở quy mô thành phố/ tỉnh là một việc làm có ý nghĩa trong việc bảo tồn bản sắc văn hóa và quảng bá du lịch của thành phố Huế chúng ta.
Thừa Thiên Huế - vùng đất chiến lược nối giữa hai miền Bắc - Nam từng là “phên dậu thứ tư về phương Nam” của Đại Việt, nơi “đô hội lớn của một phương”; từng là thủ phủ của xứ Đàng Trong, kinh đô của đất nước dưới thời Quang Trung - Nguyễn Huệ và triều Nguyễn (1802 - 1945); là miền đất địa linh nhân kiệt gắn liền với những tên tuổi lớn trong hành trình lịch sử của dân tộc, của ngàn năm Thăng Long...
Đưa Thừa Thiên Huế trở thành thành phố trực thuộc trung ương trong vài năm tới theo tinh thần kết luận số 48 của Bộ Chính trị đã mở ra một mốc mới mang tính lịch sử. Với kết luận này, đặt ra nhiệm vụ cho Huế phải trở thành trung tâm của khu vực miền Trung và là một trong những trung tâm lớn, đặc sắc của cả nước về văn hóa, du lịch, khoa học công nghệ, y tế chuyên sâu và giáo dục đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực.
Ôn cố để tri tân, Festival Huế 2010 là lần tổ chức thứ VI. Qua 6 lần tổ chức, nhìn lại những ngày liên hoan văn hóa Việt Pháp (1992) do thành phố Huế phối hợp với Codev tổ chức, anh chị em văn nghệ sĩ Huế lúc bấy giờ phấn khích lắm vì đây là cơ hội tiếp xúc với thế giới dù chỉ mới có một nước Pháp. Họ thấy cần có trách nhiệm phải tham mưu để xây dựng chương trình cũng như chủ động tham gia hoạt động trong lĩnh vực của mình.
Như thường lệ, hàng năm Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế tiến hành xét tặng thưởng cho các tác phẩm, công trình văn học nghệ thuật xuất sắc.
Chúng ta đã đi hết gần chặng đường 10 năm đầu của thiên niên kỷ mới. Thời đại chúng ta đang sống là thời đại mà sự phát triển song hành giữa cơ hội và thách thức đan xen.
(Thừa Thiên Huế trên tiến trình xây dựng thành phố trực thuộc Trung ương)
Những năm cuối cùng của thế kỷ XX, cùng với thành tựu của công cuộc đổi mới diễn ra sôi động trên đất nước Việt Nam, sức sống của vùng văn hoá Huế sau những năm dài tưởng chừng đã ngủ yên chợt bừng dậy và lấp lánh tỏa sáng.
Thơ không thể tách rời đời sống con người. Điều đó đã được thời gian minh chứng. Từ lời hát ru của mẹ, những giọng hò trên miền sông nước,… đã đánh thức tình yêu thương trong mỗi chúng ta.
Gần đây, khi Đảng ta chứng tỏ sự quan tâm của mình đối với đội ngũ trí thức thì trong dư luận cũng đã kịp thời có những phản ứng cộng hưởng. Điều mà chúng tôi lĩnh hội được gồm 3 câu hỏi tưởng chừng như "biết rồi khổ lắm nói mãi" nhưng lại không hẳn thế. Nó vẫn mới, vẫn nóng hổi vì sự tuyệt đối của qui luật vận động cũng như vì tính cập nhật, tính ứng dụng của đời sống. Chúng tôi xin được nêu ra và cùng bàn, cùng trao đổi cả 3 vấn đề.
Trí thức là những người mà lao động hàng ngày của họ là lao động trí óc, sản phẩm của họ làm ra là những sản phẩm trí tuệ, nhưng sản phẩm ấy phải là những sản phẩm có ích cho xã hội...