Nhà báo - học giả Sở Cuồng Lê Dư (1884 - 1967) - Những đóng góp cho văn hóa - nghệ thuật nước nhà

09:10 21/10/2021

PHÙNG TẤN ĐÔNG

Nhà báo, học giả Lê Dư, còn có tên Lê Đăng Dư, Lê Kính (1884 - 1967)(1), hiệu Sở Cuồng (người Cuồng nước Sở), sinh quán tại làng Nông Sơn (nay thuộc xã Điện Thọ) huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

Nhà biên khảo Lê Dư - Ảnh tư liệu

Thuở nhỏ ông học chữ Hán ở quê nhà. Lê Dư lập gia đình với bà Phan Thị Giệm (1889 - 1936), sinh hạ được năm người con. Con gái lớn là nhà thơ Lê Hằng Phương - vợ nhà văn Vũ Ngọc Phan, người con gái thứ hai là Lê Hằng Phấn - vợ nhà văn, nhà nghiên cứu Hoàng Văn Chí, người con thứ ba là trai - dược sĩ Lê Hoan, người con gái thứ tư là Lê Hằng Huân - vợ tướng Nguyễn Sơn, người con gái thứ năm là Lê Hằng Trang, mất sớm. Các con gái Lê Dư đến nay đều đã mất, chỉ còn người con trai Lê Hoan.

Năm 1900, ông cùng với Phan Khôi, Nguyễn Bá Trác ra Hà Nội học tiếng Pháp và tham gia công tác tại trường Đông Kinh Nghĩa Thục. Hướng ứng phong trào Duy Tân, phong trào Đông Du, năm 1906 ông sang Nhật du học. Năm 1908, phong trào Đông Du bị khủng bố do sức ép của thực dân Pháp, chính phủ Nhật trục xuất các nhà cách mạng Việt Nam và cả các du học sinh, ông sang Triều Tiên, Trung Quốc đọc sách và du lịch. Lê Dư rất thông thạo tiếng Nhật và tiếng Trung Quốc. Với “vốn học vấn uyên bác, 14 năm học tập và hoạt động cứu nước ở hải ngoại, chí lớn không thành, ông trở về nước, chuyên khảo cứu và biên khảo lịch sử, văn học mong khơi dậy truyền thống dân tộc”(2). Theo nhà nghiên cứu Trần Hải Yến - Lê Dư bị cụ Phan Bội Châu phê phán “là không trung thành với tổ chức”(3). Thời gian sang Triều Tiên, Trung Quốc chủ yếu ông tích lũy kiến thức về văn hóa - lịch sử các nước và viết nhiều sơ thảo theo dạng bút ký biên khảo. Cũng chính thời kỳ ông đến Cao Ly (Triều Tiên), “ông là người đầu tiên phát hiện ra dòng họ Lý ở đây là hậu duệ của Lý Long Tường - Hoàng tử thứ hai của Lý Anh Tông. Năm 1919, Lê Dư về nước, ông vào làm việc ở Phòng Chính trị Phủ Toàn quyền Bắc Kỳ và ở Trường Viễn Đông Bác cổ Hà Nội. Từ đó ông chuyên tâm cho sự nghiệp văn hóa”.(4)

Công trình của Lê Dư chủ yếu thuộc về nghiên cứu lịch sử và văn chương, hầu hết đăng tải trên các báo như các tờ Nam Phong, Đông Thanh, Đông Tây, Hữu Thanh, tập san Hội Trí Tri… như “Thảo trạch anh hùng” (Anh hùng nơi đầm cỏ), “Lịch sử Bằng Quận công”, “Tây Sơn ngoại sử” (Ngoại sử về Tây Sơn), “Chữ Nôm với chữ Quốc ngữ”, “Quốc âm thi văn tùng thoại” (Tập luận bàn về thơ văn quốc âm), “Nữ lưu văn học sử”, “Ca vũ và âm nhạc nước nhà”, “Việt Nam văn học sử”… Đặc biệt, Lê Dư tổ chức biên sọan tủ sách “Sở Cuồng văn khố Quốc học tùng san” với những ấn phẩm như: “Nam Quốc nữ lưu” (Nữ lưu nước Nam - 1929), “Nữ lưu văn học sử” (Lịch sử văn học của nữ giới - 1929), “Bạch Vân Am thi văn tập” (Tập thơ văn Bạch Vân Am - 1930), “Vị Xuyên thi văn tập” (Tập thơ văn Vị Xuyên Trần Tế Xương - 1931), “Phổ Chiêu Thiền sư thi văn tập” (Tập thơ văn của Phổ Chiêu Thiền sư - Phạm Thái - 1932).

Một số nhân viên trong ban sáng lập Hội Bắc Kỳ Phật Giáo, chụp tại chùa Quán Sứ cũ năm 1936 - Ảnh tư liệu


Lê Dư - người nghiên cứu đầu tiên về mối quan hệ ngoại giao Việt Nam - Nhật Bản

Các nhà nghiên cứu Đoàn Lê Giang, Lê Quang Trường - khoa Văn học và Ngôn ngữ Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn - Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh có đề cập đến một tham luận tại Hội thảo khoa học quốc tế về Đô thị cổ Hội An năm 1990(5). Đó là bài tham luận/ bài viết của Giáo sư Kawamoto Kuniye “Nhận thức quốc tế của chúa Nguyễn ở Quảng Nam căn cứ theo Gaiban tsusho (Ngoại phiên thông thư)” - đây là bài viết bằng tiếng Việt giới thiệu về các bức thư trao đổi giữa Mạc phủ Tokugawa (Nhật Bản) và chúa Trịnh, chúa Nguyễn (Việt Nam). Đoàn Lê Giang, Lê Quang Trường cũng đề cập đến công trình giới thiệu về nhà thơ Nhật Bản Abe no Nakamaro (thế kỷ XIII), bạn thơ của Lý Bạch lưu lạc đến Việt Nam (bài “Một người bạn của Lý Bạch lưu lạc ở Việt Nam” đăng trên “Kiến thức ngày nay” số xuân 1995).

Trong kỷ yếu hội thảo 1990 - tác giả bài viết, GS K. Kuniye nói về “An Nam quốc thư” trong “Ngoại phiên thông thư” gồm những văn thư từ Việt Nam gởi đến cho nhà Mạc Phủ Đức Xuyên và ngược lại, “hoặc văn thư của chính quyền chúa Nguyễn và chúa Trịnh và người đại thần dưới chính quyền chúa Trịnh trao cho các thương gia tàu châu Ấn Nhật. Các văn thư trên có liên quan đến lịch sử của Hội An vào đầu thế kỷ 17, và thực tình là tài liệu quan trọng đối với các học giả Nhật Bản, từ sau thời Minh Trị, muốn nghiên cứu về lịch sử giao dịch thương nghiệp Nhật Bản vào thời kỳ đầu của chính quyền Đức Xuyên. Nhưng với sự hiểu biết của tôi - K. Kuniye - các tư liệu này chưa được các học giả Việt Nam sử dụng”.(6)

Cho đến khi tìm hiểu phần Hán văn trên tạp chí Nam Phong, các nhà nghiên cứu trên ‘mới phát hiện ra là từ gần 100 năm trước, Lê Dư đã nghiên cứu về những chuyện nói trên khá kỹ, chỉ tiếc là ông viết bằng Hán văn, nên ít người chú ý đến”.(7)

Thực tế, năm 1920 Lê Dư cộng tác với Nam Phong tạp chí. Từ số 41 (tháng 11/1920, phần Hán văn) và số 42 (tháng 12/1920, phần Hán văn) tạp chí Nam Phong, ông giới thiệu về các lĩnh vực của Nhật Bản (địa lý, nhân chủng, tính quốc dân, lịch sử, ngôn ngữ, văn tự, văn hóa…). Nam phong tạp chí số 43 (tháng 1/1921, phần Hán văn) ông viết “Ghi chép phong vật các nước, phần 3: Lịch sử ngoại giao Việt Nam - Nhật Bản thời cổ”. Nam phong tạp chí số 45 (tháng 3/1921, phần Hán văn) ông viết “Ghi chép phong vật các nước, phần 4: Giáo dục Nhật Bản).

Trong hai số Nam phong tạp chí số 54 (tháng 12/1921, Hán văn) và 56 (tháng 2/1922), Lê Dư lần lượt giới thiệu 35 bức thư trao đổi giữa chúa Trịnh, chúa Nguyễn và Mạc phủ Tokugawa in trong tập Ngoại phiên thông thư - An Nam quốc thư: Bài 1: Cổ đại Nam Nhật giao thông khảo 古代南日交通攷, phụ đề: Bản triều tiên đại dữ Nhật Bản giao thông chi văn thư 本 朝先代與日本交通之文書, 25 bức; Bài 2: Cổ đại ngã quốc dữ Nhật Bản chi giao thông (tục) 古代我國 與日本之交通 (續), 10 bức.

Trong bài nghiên cứu “Lịch sử giao lưu giữa Nhật Bản và nước ta (Việt Nam) thời xưa” Lê Dư từng đề cập đến việc giao thương giữa các thuyền buôn Nhật Bản với nước ta qua thương cảng Hội An, Lê Dư thuật như sau (trích): “… Năm 1593 (năm Văn Lộc thứ 2 của Nhật), 3 chiếc thuyền từ Kinh đô/ Kyoto 京都, 1 thuyền từ Sakai (địa danh ở Nhật), 5 chiếc thuyền từ Trường Kỳ/ Nagasaki 長崎 của Nhật tổng cộng là 9 thuyền đi đến các xứ Đông Kinh 東京, Giao Chỉ 交趾, Campuchia để buôn bán làm ăn. Có các thuyền chủ rất nổi tiếng như Giác Thương Dữ Nhất/ Suminokura Yoichi 角倉與一 (của Kinh đô, Trà Ốc Tứ Lang/ Chaya Shirōjirō 茶屋四郎 次郎 (của vùng Sakai, Hoang Mộc Tôn Thái Lang/ Araki Sotaro 荒木尊太郎, Thuyền Bản Di Thất Lang/ Yashichiro 船本弥七郎, Di Tả Vệ Môn/ Yasaemon 彌左衛門 của Trường Kỳ/ Nagasaki… nhiều người đã cư ngụ ở Hội An của Quảng Nam.

Xét thấy ở Hội An có một loại nhà được gọi là nhà của người Nhật Bản, lại có một chiếc cầu gọi là Chùa Cầu. Hiếu Minh hoàng đế triều Nguyễn ta từng ngự đề ba chữ “Lai Viễn Kiều
來 遠橋” treo ở sảnh của cầu đó, đến nay vẫn còn. Chiếc cầu ấy trông rất u nhã, kiến trúc giống với những chiếc cầu cổ xưa của Nhật, đó là thứ mà người Nhật xây dựng khi cư ngụ ở Hội An, đồng thời họ cũng từng xây dựng nhà cửa để ở. Cuối thời Minh, trưng sĩ Chu Thuấn Thủy tiên sinh có làm quyển Cung dịch An Nam ký sự 供 役安南紀事 có ghi rằng: đem cầm bán những thứ trong nhà trả cho Di Tả Vệ Môn/ Yasaemon 彌左 衛門 40 lạng bạc 8 tiền, trả tiền thuê phòng cho chủ nhà trọ Quyền Binh Vệ/ Gonnobyoe 權兵衛 30 lạng. Họ Chu bấy giờ cũng là khách cư ngụ ở Hội An, có thể biết người Nhật ở Hội An từng có nhà cho người ta thuê ở.

Khoảng năm 1600 (thời đại Đức Xuyên của Nhật), nước ta giao thương với nước Nhật rất thịnh, Đà Nẵng và Trường Kỳ/ Nagasaki có đường biển qua lại theo định kỳ. Công văn qua lại rất nhiều. Hiện nước Nhật lưu giữ văn thư của nước ta có đến 36 văn kiện. Năm 1915 (năm Đại Chính thứ 4 của Nhật) số văn kiện này từng được triển lãm tại nhà bảo tàng công viên Thượng Dã/ Ueno ở Đông Kinh, bấy giờ tôi có tham dự nhưng lại không lưu ý sao chép giữ gìn để đến nỗi bây giờ phải hối tiếc.

Năm 1627 (năm Khoan Vĩnh thứ 4 của Nhật), nước ta đưa thư sang Nhật xin thông thương.”
(8)

Như vậy Lê Dư là người Việt Nam đầu tiên nghiên cứu về quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Nhật Bản. Từ năm 1919 ông hoàn thành hàng chục công trình biên khảo bằng Hán văn như “Liệt quốc thái phong ký” (ghi chép chọn lọc về phong tục, lịch sử, địa lý các nước quanh ta như Nhật, Thái Lan, Cao Miên…), “Việt Đông phong thổ ký” (phong tục thổ nghi Quảng Đông) và nhiều bài viết bằng quốc văn về văn học sử và lịch sử Việt Nam…

 

Về những đóng góp của nhà báo, học giả Lê Dư cho văn hóa

Trong hành trạng của mình - việc cụ Phan Bội Châu đánh giá về ông trong tác phẩm “Tự Phán” đã được lớp hậu sinh “chiêu thuyết”. Nhà nghiên cứu Phạm Hoàng Quân cho rằng “Như Phan Bội Châu viết “Tự Phán” thì hoạt động của Lê Dư ở Nhật Bản và Trung Quốc khá phức tạp, có lẽ nhà cách mạng Việt Nam giai đoạn này không hiểu rõ chủ trương công việc của Lê Dư nên gán cho ông nhiều thông tin bất lợi. Chúng tôi qua khảo sát các công trình nghiên cứu bằng Hán văn của ông, thấy rằng ông hầu như đã dành hết thời giờ vào việc đọc các tân thư, cổ thư Nhật Bản và Trung Quốc để trích thải các tài liệu liên quan đến lịch sử nước nhà, có phải vì thế mà ông đã lơ là công tác chính trị theo chủ trương chung của tổ chức?”(9) Lê Dư viết du ký rất hay, miêu thuật rất tỉ mỉ luôn thiên về truyền bá tri thức, kiến thức hơn là kiến giải, luân lý học thuật kiểu nghiên cứu chuyên sâu. Ngày nay đọc những bài viết của ông như trong sách “Dấu tích Thăng Long”(10) gồm “Hà Thành kim tích khảo” và “Di Cổ Loa thành ký”. “Hà Thành kim tích khảo” là thiên khảo cứu về thành phố Hà Nội xưa và nay. Ông đã ghi chép tổng quan về di tích, thắng cảnh và sự thay đổi thành quách, cung thất, phố phường Thăng Long - Hà Nội qua các đời với gần một trăm danh thắng, 3 bức địa đồ mà ông tự vẽ với hệ thống địa danh chữ Hán. Thiên khảo cứu này có thể cho ta một cái nhìn toàn cảnh về Hà Nội vào thời điểm đầu thế kỷ XX, đồng thời cũng giúp bổ sung nhiều chi tiết cho việc nghiên cứu về lịch sử, địa dư thủ đô Hà Nội hiện nay, (nguyên văn chữ Hán đăng trên Nam Phong tạp chí số 80 và 81). “Di Cổ Loa thành ký” là bài du ký ghi lại cuộc du ngoạn của ông cùng hai người bạn là Mã Dã Phong Tam Lang (Nhật Bản) và Cao Kiều Đôn (Trung Hoa) - những người bạn cùng làm việc ở Viện Viễn Đông Bác cổ Hà Nội. Nhà nghiên cứu Phạm Hoàng Quân có nhận định về mảng bút ký của ông như sau: “Là người đi nhiều, đọc nhiều và viết khỏe, riêng về mảng bút ký, hầu như mỗi nơi ông đặt chân đến đều có thu hoạch đáng kể, bút ký biên khảo của Lê Dư đầy ắp sử liệu lại đậm đà chất văn, tản mác trong các thiên là sự ẩn chứa nỗi niềm hoài cổ, thời oai hùng của dân tộc, hoặc ghi chép cái hay ở xứ người mà luôn chạnh nỗi yếu dở của nước nhà, xót cho dân khí hèn, dân trí thấp…”(11). Về các tác phẩm biên khảo trong tủ sách Quốc văn của ông - nhà nghiên cứu Trần Trọng Dương đánh giá trong lời cám ơn khi khảo, cứu hiệu chú cuốn sách “Phạm Thái toàn tập” (Sở Cuồng Lê Dư phiên chú): “Đặc biệt cám ơn học giả Sở Cuồng Lê Dư - người đầu tiên giới thiệu Phạm Thái và các tác phẩm của ông đến với độc giả trong chương trình xây dựng tủ sách quốc văn nhằm hướng đến một nền quốc học. Nhờ có Lê Dư mà Phạm Thái trở thành tác gia nổi tiếng, ông được Khái Hưng viết cuốn “Tiêu Sơn tráng sĩ”, được Phan Khắc Khoan viết kịch thơ “Phạm Thái”. Đến nửa sau thế kỷ XX, các tác phẩm của ông (Phạm Thái) được đưa vào Từ điển văn học, và một số giáo trình môn học ở cấp đại học và phổ thông. Cũng nhờ có công phiên âm quốc ngữ của Lê Dư mà chúng tôi mới có thể biên soạn cuốn sách này”.(12)

Cả một đời làm báo, biên khảo sách lịch sử, sách văn học Lê Dư thực sự đã làm hết sức mình cho mục đích” bàn giao cái vốn liếng tinh thần của tiền nhân để lại cho lớp sau đang thiếu Hán ngữ”. (13) Tinh thần yêu nước của nhà chí sĩ Lê Dư được biểu hiện trong nhiều việc làm. Trong bài diễn văn tại Hội Trí Tri Hà Nội ngày 25/11/1933, ông đã nói “Nước ta thu nạp ba nguồn văn học ở nước ngoài đến là Hán học, Phật học và Tây học, làm cho dân trí của ta ngày được mở mang, thật là một sự rất may. Nhưng vì ba cái học đó đều là ta học mượn của người cho nên gây ra một cái học phong sai lầm, chúng ta là người Việt Nam mà đi học những chuyện đâu đâu, hỏi đến chuyện nước Nam thì như ở trong vòng sương mù đến mấy dặm; học mà không biết đến nước là một cái học không có căn bản; thua kém các nước là tại chỗ đó. Vậy nên tuy đã có tiến hóa mà vẫn không phải có cái nguồn gốc thật”(14). Lê Dư dường đã làm xong nhiệm vụ của một trí thức cựu học và cả nhiệm vụ của một trí thức có trải nghiệm tân học trong buổi giao thời - “thời Nho học suy tàn, Tây học mới nảy”(15). Công việc của ông là “truyền bá Đông Tây học thuật” mà việc cốt lõi là cần phải trau dồi Việt ngữ. Ông đã góp phần vào việc cải biến câu văn Quốc ngữ thoát khỏi lối văn biền ngẫu, “thứ chữ Quốc ngữ nặng từ Hán Việt” kiểu Phạm Quỳnh và một số nhà báo cộng tác với Nam phong.

P.T.Đ
(SHSDB42/09-2021)

----------------------------
(1) Về năm sinh và năm mất của học giả Lê Dư trước đây còn nhiều vấn đề tồn nghi. Về năm sinh, nhiều công trình nghiên cứu để khuyết - nhất là những công trình có tính học thuật như “Từ điển Nhân vật lịch sử Việt Nam” (Nguyễn Q Thắng, Nguyến Bá Thế - Nxb. Tổng hợp TP HCM (Bộ mới) 2006, tr. 445) ghi “Lê Dư - Sở Cuồng - (Ất Dậu 1885? - Đinh Dậu 1967); Từ điển văn học bộ mới – Nxb. Thế giới 2004 tr. 818 ghi “Lê Dư - (?-31-VIII 1967); Phạm Hoàng Quân trong bài “Bút ký biên khảo đậm chất văn của học giả Lê Dư” ghi “Học giả Lê Dư (1885? - 1957); Đoàn Lê Giang - Lê Quang Trường trong bài “Sở Cuồng Lê Dư - học giả tiên phong trong việc nghiên cứu Việt Nam - Nhật Bản” ghi “Sở Cuồng Lê Dư (? - 1967); tác giả Trần Trọng Dương trong “Phạm Thái toàn tập” cũng ghi “Lê Dư (? - 1967)…
Chúng tôi chọn ghi theo tác phẩm “Chuyện Hà Nội (Vũ Ngọc Phan), khảo cứu Hà Thành xưa và nay” (Lê Dư)” Nxb. Văn học, H. 2019, phần tiểu sử của Lê Dư do cháu ngoại ông - GS-TS Vũ Tuyên Hoàng biên soạn (người ghi chép lại) ngày 29/3/1998.
(2) Lê Dư (2019) - Khảo cứu Hà Thành xưa và nay - Sơ lược tiểu sử học giả Lê Dư - Nxb. Văn học, Hà Nội 2019 tr. 176.
(3) Trần Hải Yến (2004) - mục từ “Lê Dư” - Từ điển văn học bộ mới - Nxb. Thế giới H. 2004 tr. 818 - 819.
(4) Đoàn Lê Giang, Lê Quang Trường (2014) - Sở Cuồng Lê Dư - học giả tiên phong trong việc nghiên cứu quan hệ Việt Nam - Nhật Bản - Tạp chí Nghiên cứu văn học - Viện Văn học, Hà Nội số 7/2014.
(5) Đoàn Lê Giang… (2014) - Tạp chí Nghiên cứu văn học đã dẫn.
(6) Kawamoto Kuniye (1991) Ủy ban Quốc gia Hội thảo Quốc tế về Đô thị cổ Hội An 1991) - Kỷ yếu Hội Thảo - Nxb. KHXH H. 1991 tr. 169-178.
(7) Đoàn Lê Giang… (2014) - Tạp chí Nghiên cứu văn học đã dẫn.
(8) Đoàn Lê Giang…(2014)-Tạp chí Nghiên cứu văn học đã dẫn.
(9) Phạm Hoàng Quân - “Bút ký biên khảo đậm chất văn của học giả Lê Dư”.
(10) Sở Cuồng Lê Dư (2014) - Dấu tích Thăng Long (Hồ Viên dịch) - Nxb. Lao Động H. 2014.
(11) Phạm Hoàng Quân - nguồn đã dẫn.
(12) Trần Trọng Dương (2019) - Phạm Thái toàn tập - Nxb. Văn học, H. 2019 tr. 9.
(13) Võ Phiến (1999) - Đố kỵ cái trừu tượng - nguồn diendantheky.net
(14) Lê Dư (2019) - Khảo cứu Hà Thành xưa và nay - sách đã dẫn… tr. 177.
(15) Võ Phiến (1999) - Bài đã dẫn.




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.

  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...

  • HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.

  • HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.

  • ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.

  • LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.

  • TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.