Nhà ái quốc và nhà giáo dục lớn của nước ta đầu thế kỷ XX

10:01 04/09/2008
TRẦN THANH ĐẠMNgày13 tháng 06 năm 2002 vừa qua là dịp kỷ niệm lần thứ 75 ngày mất của một trong những nhà yêu nước và cách mạng tiền bối, một nhà giáo dục lớn của nước ta đầu thế kỷ XX: chí sĩ Lương Văn Can (1854-1927).

Đối với đương thời cũng như hậu thế, tên tuổi, sự nghiệp và uy tín của cụ có thể xếp ngang hàng với các nhà cách mạng đi tiên phong trong thế kỷ XX như: Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thượng Hiền... Tên tuổi ấy gắn liền với một sự kiện lịch sử và văn hóa trọng đại của đất nước ta đầu thế kỷ XX mà năm nay cũng được tròn 95 năm: đó là Đông Kinh Nghĩa Thục (ĐKNT).
Sách Lịch sử Việt Nam của Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam do giáo sư viện sĩ Nguyễn Khánh Toàn chủ trì biên soạn đầu những năm 1970, trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đã đánh giá rất cao vai trò của ĐKNT trong lịch sử cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX. Sách viết: "Mở đầu phong trào đấu tranh của nhân dân ta trong các thành thị, tháng 3-1907, một nhóm sĩ phu thành lập trường ĐKNT tại phố Hàng Đào Hà Nội, do Lương Văn Can và Nguyễn Quyền phụ trách. Nhà trường được các nhà yêu nước và những người có con theo học ủng hộ về tài chánh. Trường thu hút có lúc tới hàng ngàn học sinh, gồm cả trẻ, già, trai, gái. Họ không phải đóng học phí, lại được cấp giấy bút, sách vở. Trường có bốn ban: Ban Giáo dục, Ban Tài chính, Ban Cổ động, Ban Trước tác. Ban Trước tác đã biên soạn được một số sách cung cấp cho các học viên, như: Quốc dân độc bản, quốc giai sự, quốc vĩ nhân, Việt quốc sử lược, quốc địa dư, Quốc văn giáo khoa thư, Luân lý giáo khoa thư, Văn minh tân học sách...".
"ĐKNT là một tổ chức cách mạng dùng hình thức mở trường, dạy học, tuyên truyền văn hóa để đào tạo nhân tài, tập hợp lực lượng yêu nước và là trung tâm của một phong trào vận động văn hóa mang tính chất dân tộc, dân chủ. Ảnh hưởng của phong trào từ thành thị lan về nông thôn, từ Bắc Kỳ lan vào Trung Kỳ và Kỳ..." "ĐKNT tuy tuyên truyền cải cách văn hóa, xã hội, hô hào thực nghiệp, tiến công vào tư tưởng lề thói phong kiến, nhưng vẫn không quên kẻ thù chính của dân tộc là thực dân Pháp. Những bài khuyên làm ruộng, trồng dâu nuôi tằm, mặc vải nội hóa, học chữ quốc ngữ... được truyền bá đồng thời với những bài kêu gọi hồn nước, ca ngợi truyền thống dân tộc chống xâm lăng, tố cáo nạn sưu cao, thuế nặng, phản đối nhà ngân hàng Đông Dương, kịch liệt lên án việc lưu hành tiền sắt. Những hoạt động của ĐKNT thường kết hợp với những hoạt động của Đông Du, kết hợp Minh xã (hoạt động công khai) với Ám xã (hoạt động bí mật) cùng thống nhất mục tiêu và hành động và cùng phối hợp thực hiện"...
"ĐKNT là một tổ chức cách mạng có cống hiến lớn trong việc tuyên truyền cổ động cách mạng, đồng thời cũng góp phần tích cực vào việc phát triển văn hóa dân tộc, ngôn ngữ và văn tự Việt '... "Mới đầu bọn thống trị Pháp tưởng ĐKNT chỉ tiến hành các hoạt động cải lương. Sau chúng thấy đó thật là "cái lò phiến loạn" ở Bắc Kỳ nên đã lập tức thẳng tay đàn áp. Tháng 12-1907 chúng đóng cửa trường. Năm 1908, chúng bắt các sĩ phu ĐKNT trong đó có Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Dương Bá Trạc, Lê Đại... tịch thu và cấm lưu hành, tàng trữ các tài liệu của ĐKNT..."
Những đoạn trích trên đây đã thể hiện sự đánh giá rất cao của Đảng ta và nhân dân ta đối với ĐKNT và ảnh hưởng to lớn của tổ chức giáo dục và văn hóa yêu nước và cách mạng này. ĐKNT là một hiện tượng lịch sử và văn hóa độc đáo. Chỉ tồn tại hơn nửa năm trời, nhà trường này đã để lại một dấu ấn sâu xa với những ảnh hưởng rộng lớn và lâu dài trong lịch sử mà ý nghĩa nhiều mặt cho đến ngày nay chưa phải là đã được khám phá và phát hiện hết, chưa được các nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa và giáo dục của chúng ta quan tâm một cách thật xứng đáng. Hy vọng trong vòng 5 năm nữa, đến dịp kỷ niệm 100 năm thành lập và hoạt động của Nghĩa thục (1907 – 2007), sẽ có những công trình nghiên cứu đầy đủ hơn về sự kiện này cùng với hành trạng cao quý của các nhà ái quốc trong tổ chức và phong trào đó, mà đứng đầu là chí sĩ Lương Văn Can.
Chí sĩ Lương Văn Can là linh hồn và đầu não của ĐKNT. Cụ là sáng lập viên chính của Nghĩa thục, được các đồng chí tôn cử từ đầu làm Thục trưởng (tức Hiệu trưởng) cùng với Nguyễn Quyền làm Giám học. Sự hủy hoại của chính quyền thực dân đối với các tài liệu của Nghĩa thục, các tác phẩm cũng như lai lịch của các yếu nhân của Nghĩa thục gây khó khăn rất nhiều cho chúng ta ngày nay khi tìm hiểu về các cụ. Tuy nhiên, qua một số tài liệu ít ỏi còn sót lại, qua chứng cứ của các môn sinh và thân nhân của cụ, chúng ta cũng có thể tái hiện ít nhiều về cuộc đời và sự nghiệp của con người đáng kính đó.
Cụ Lương Văn Can sinh năm 1854 (cao tuổi hơn cụ Phan Bội Châu già một con giáp) tại làng Nhị Khê, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông (nay thuộc ngoại thành Hà Nội) trong một gia đình thanh bạch. Tuổi nhỏ, nhà nghèo, hiếu học, có lúc cụ làm thợ để có tiền theo học. Năm 21 tuổi, cụ thi Hương đậu cử nhân, năm sau thi Hội nhưng không cập đệ. Từ đó cụ cũng giã từ luôn khoa cử và công danh dưới chế độ phong kiến, thực dân. Triều đình Huế định bổ nhiệm cụ giữ chức Giáo thụ phủ Hoài Đức, cụ không nhận. Chính phủ Pháp cũng có lần cử cụ vào Hội đồng Thành phố Hà Nội, cụ cũng từ chối. Cụ ở nhà mở trường dạy học, cùng vợ mở ngôi hàng ở số 4 Hàng Đào. Sớm có lòng yêu nước, có chí tự lập, có khí phách khảng khái, cương trực mà lại trầm tĩnh, hòa nhã (biệt hiệu Ôn Như), cụ có phong độ của một nhà giáo dục gương mẫu, đồng thời rất nhạy cảm với cái mới, với tinh thần cách mạng, duy tân lúc đương thời. Đứng ra chủ trì ĐKNT, cụ không những cống hiến trí tuệ, sức lực mà cả sản nghiệp của mình. Nhà cửa của cụ được dùng làm cơ sở dạy học của Trường, từ Hàng Đào sang Hàng Quạt. Công việc kinh doanh của hai cụ trước sau đóng góp phần tài chính cho hoạt động của Trường, các con cháu đều tham gia công việc của Trường và phong trào yêu nước.
Khi Nghĩa thục bắt đầu hoạt động, cụ đã ngoài 50 tuổi, vào bậc trưởng thượng, được kính nể, có uy tín trong các sĩ phu đương thời, làm trung tâm đoàn kết, tập hợp họ để giáo huấn cho người học. Cụ không để lại nhiều thơ văn, song trong việc biên tập, trước các tài liệu dạy học của Nghĩa thục chắc chắn có sự tham gia, đóng góp của cụ.
Khi thực dân Pháp khủng bố nhà trường, cụ và một số yếu nhân của Nghĩa thục bị bắt, nhiều người bị kết án đày ra Côn Đảo, chịu cảnh lưu đày khổ sai ngoài đảo. Năm 1913, cụ bị thực dân Pháp "an trí" tại Pnom-Pênh, mười năm sau mới được trở về Hà Nội. Các nhà trí thức yêu nước lúc bấy giờ tuy bị đày ải khổ cực về thể xác song uy tín tinh thần của họ trong nhân dân lại rất cao, cho nên giới cầm quyền thường bao vây, cấm vận họ để ngăn chặn ảnh hưởng của họ. Trở lại Hà Nội, nhà số 4 Hàng Đào, cụ lại mở trường dạy học, học trò khá đông, tuy không còn quang cảnh ĐKNT ngày xưa song vang bóng của nó trong những năm 20 vẫn còn rõ rệt, nhất là trong các năm 1925, 1926, rầm rộ các phong trào yêu cầu trả tự do cho Phan Bội Châu và sau đó là phong trào để tang Phan Chu Trinh. Mọi sinh hoạt, hành vi của cụ Lương đều bị mật thám Pháp giám sát thường xuyên. Năm 1926, cụ bà mất, năm sau cụ ông mất, ngày 13.6.1927. Một năm sau đám tang Phan Chu Trinh, đám tang Lương Văn Can cũng là một sự kiện chấn động dư luận Hà Nội và cả nước. Rút kinh nghiệm từ đám tang trước, nhà cầm quyền thực dân dùng nhiều biện pháp để ngăn chặn sự biểu lộ tình cảm yêu nước của nhân dân nhân dịp đám tang của cụ. Tạo cớ và lấy cớ cụ qua đời vì "bệnh thời khí", chính quyền Pháp không cho đưa linh cữu cụ về quê, bắt phải tống táng ngay trong ngày tại nghĩa trang Bạch Mai. Tuy vậy, tin cụ qua đời lan nhanh trong thành phố và trong cả nước. Đám tang có cả ngàn người đi theo linh cữu đến nghĩa trang lúc 7 giờ tối. Giặc Pháp huy động mật thám, cảnh binh và lính khố xanh theo dõi, canh gác đám tang và nghĩa trang, đe dọa các người đi đưa đám. Mặc dù vậy, đám tang Lương Văn Can ở Hà Nội tiếp theo sau đám tang của Phan Chu Trinh ở Sài Gòn là một dịp biểu dương tinh thần yêu nước, ý chí độc lập tự do của nhân dân ta trong cả nước. Báo chí cả nước đều đưa tin buồn, nhiều nơi tổ chức truy điệu. Ở Sài Gòn, theo lời kêu gọi của tờ Đông Pháp thời báo do Trần Huy Liệu, một môn sinh của Lương Văn Can, làm chủ bút, các giới đồng bào đã bãi thị, bãi công làm lễ truy điệu vào ngày 26.6.1927.
Đám tang của cụ cử Lương Văn Can vào đúng 20 năm sau ngày thành lập Đông Kinh Nghĩa Thục chứng tỏ thời gian và thế sự không làm phai mờ ký ức tốt đẹp của nhân dân về Nghĩa thục và đối với một con người yêu nước chân chính, hết lòng phấn đấu, hy sinh vì đồng bào, đất nước, vì văn hóa, giáo dục nước nhà.
96 năm từ ngày thành lập Nghĩa thục và 75 năm từ ngày qua đời của vị đứng đầu của Nghĩa thục, bước sang thế kỷ XXI, tôi trộm nghĩ ký ức về con người đáng kính ấy lại càng sáng tỏ hơn bao giờ hết trong tâm tư của thế hệ hôm nay, khi quay nhìn lại những giá trị và truyền thống ưu tú của thế kỷ mới đi qua. Viết mấy lời về cụ Lương Văn Can, tôi muốn tô đậm hình ảnh của cụ như một nhà giáo dục lớn của nước ta thời kỳ hiện đại. Cần lưu ý rằng: con người ấy không chỉ giáo dục các thế hệ học trò của mình trở thành những người yêu nước mà các con cái của hai cụ trong gia đình đều trở thành những nhà cách mạng, trong đó có Lương Ngọc Quyến đã hy sinh anh dũng cho Tổ quốc. Lương Ngọc Quyến (Lương Lập Nham) là lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên (8-1917) đã cùng với Trịnh Văn Cấn (Đội Cấn) làm binh biến lật đổ chính quyền thực dân, thành lập chính quyền độc lập trên một tỉnh của đất nước. Trước khi cuộc khởi nghĩa thất bại và Lương Ngọc Quyến hy sinh, chính quyền độc lập đó đã tồn tại được một tuần lễ và cuộc đấu tranh vũ trang đó kéo dài được 6 tháng, gây tiếng vang lớn trong nhân dân cả nước.
Khi qua đời, cụ Lương Văn Can để lại sáu chữ cho học trò: "Bảo quốc tuý, tuyết quốc sỉ" (gìn giữ tinh hoa của dân tộc, rửa sạch tủi nhục cho đất nước). Ngày nay, nơi vĩnh hằng, hẳn anh linh cụ đã ngậm cười vì ước nguyện đó của cụ và của thế hệ các nhà ái quốc đầu thế kỷ XX đã và đang được các thế hệ người Việt Nam hôm qua và hôm nay biến thành hiện thực.
Tác phẩm của cụ mất mát nhiều, song vài bài thơ để lại ý tứ thanh cao, lời lẽ trong sáng, đúng tâm trạng và khẩu khí của một nhà giáo yêu nước mang phong cách bất khuất, ung dung.

KHUYẾN TRUNG
(Bài này có lẽ làm khi giảng dạy ở ĐKNT)

Áo cơm lộc nước đã bao lâu
Một tấm lòng trung trả nghĩa sâu
Mưa gió giữ gìn bền chí mãi
Non sông gánh vác ghé vai vào
Rửa hơn quốc gia theo Lê tướng (1)
Xong nợ công danh học Phạm hầu (2)
Sự nghiệp quốc dân là bổn phận
Thân này quan trọng dám quên đâu...

CẢM TÁC
(Bài này có thể được làm khi đi tù trở về)

Chín năm xa nước với xa nhà
Lần lữa ngày qua lại tháng qua
Buôn tính hơn thua toan mặc trẻ
Sách vui soạn thuật tự quên già
Đồng tâm thêm rộng tri giao nữa
Quá nhãn càng nhiều kiến thức ra
Tổ quốc trở về lòng luống những
Ta nay nào đã khác xưa ta...
Theo sách "Thơ văn yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ XX"
6.2002
T.T.Đ
(nguồn: TCSH số 163 - 09 - 2002)
--------------------------
1. Lê tướng: Lê Lợi, lãnh tụ khởi nghĩa Lam Sơn, sáng lập nhà hậu Lê, miếu hiệu là Lê Thái Tổ
2. Phạm hầu: Phạm Lãi, nhân vật thời Chiến quốc ở Trung Hoa, giúp Việt vương Câu Tiễn khôi phục nước Việt, sau đó từ bỏ công danh, chu du ngũ hồ.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN THANH HÙNGVăn học là cuộc sống. Quan niệm như vậy là chẳng cần phải nói gì thêm cho sâu sắc để rồi cứ sống, cứ viết, cứ đọc và xa dần mãi bản thân văn học.

  • LTS: Cuộc tranh luận giữa hai luồng ý kiến về nhân vật lịch sử Nguyễn Hiển Dĩnh, một mệnh quan triều đình Huế có công hay có tội vẫn chưa thuyết phục được nhau.Vấn đề này, Tòa soạn chúng tôi cũng chỉ biết... nhờ ông Khổng Tử "Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri giả" (biết thì nói biết, không biết thì nói không biết, ấy là biết). Vậy nên bài viết sau đây của nhà văn, nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa Nguyễn Đắc Xuân, chúng tôi xin đăng nguyên văn, tác giả phải gánh trọn trách nhiệm về độ chính xác, về tính khoa học của văn bản.Mong các nhà nghiên cứu, cùng bạn đọc quan tâm tham gia trao đổi tiếp.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNNăm 1998, Thành phố Đà Nẵng dự định lấy tên nhà soạn tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh đặt cho con đường mới song song với đường 2 tháng 9 và đường Núi Thành. Nhưng sau đó qua một số tin bài của tôi đăng trên báo Lao Động nêu lên những điểm chưa rõ ràng trong tiểu sử của ông Nguyễn Hiển Dĩnh, UBND Thành phố Đà Nẵng thấy có một cái gì chưa ổn trong tiểu sử của Nguyễn Hiển Dĩnh nên đã thống nhất rút tên ông ra khỏi danh sách danh nhân dùng để đặt tên đường phố lần ấy. Như thế mọi việc đã tạm ổn.

  • Vừa qua nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân có viết một loạt bài về ông Nguyễn Hiển Dĩnh - một quan lại triều nguyễn, nhà soạn tuồng nổi tiếng Quảng Nam. Qua thư tịch, anh chứng minh Nguyễn Hiển Dĩnh tuy có đóng góp cho nghệ thuật tuồng cổ nhưng những hành vi tiếp tay cho Pháp đàn áp các phong trào yêu nước ở Quảng Nam quá nặng nề nên không thể tôn xưng Nguyễn Hiển Dĩnh là danh nhân văn hoá của việt Nam như Viện Sân khấu và ngành văn hoá ở Quảng Nam Đà Nẵng đã làm. Qua các bài viết của Nguyễn Đắc Xuân có những vấn đề lâu nay ngành văn hoá lịch sử chưa chú ý đến. nhà báo Bùi Ngọc Quỳnh đã có cuộc đối thoại lý thú với anh về những vấn đề nầy.

  • ĐỖ NGỌC YÊNVào những năm 70 của thế kỷ, ở nhiều nước phương Tây tràn ngập không khí của cuộc khủng hoảng gia đình, làm cho nhiều người rất lo ngại. Một số kẻ cực đoan chủ trương xóa bỏ hình mẫu gia đình truyền thống. Nhưng cái khó đối với họ không phải là việc từ bỏ hình mẫu gia đình cũ - mặc dù trên thực tế việc làm đó không phải dễ - mà vấn đề đâu là hình mẫu gia đình mới.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH             Phóng sự điều tra

  • THỦY THANHLâu nay, "quả lắc" vì sự trong sáng tiếng Việt dường như đã trì vào điểm chết của dây dọi. Những mặc cảm, thành kiến hoặc dị ứng về sự "ga lăng ngôn ngữ" trước áp lực của thời đại tin học cũng chững lại như một thái độ thăm dò. Suy cho cùng thì ngôn ngữ cũng có đời sống riêng và nó bao gồm cả thể vía lẫn thể xác. Nó cũng "hữu sinh tất hữu diệt" trong luật tiến hóa và đào thải như nhiên. Ngôn ngữ nói chung là một phương pháp hệ thống hóa và tích lũy tri thức theo sự diễn tiến về mặt lịch đại và sự tiệm tiến về mặt đồng đại.

  • Các lý thuyết văn học tiếp cận văn chương theo những cách khác nhau và có thể được phân loại theo những tiêu chí khác nhau. Tuy nhiên, có một điểm chung tối quan trọng không thể chối cãi: tác phẩm văn học là một hiện tượng sử dụng ngôn ngữ trong đó không thể thiếu vai trò của tác giả, độc giả cũng như thực tại, cho dù mỗi yếu tố tham gia ở những mức độ khác nhau.

  • Viết là một công việc bất hạnh. Một trong những yếu tố gây khốn khổ cho nhà văn là cốt truyện. Cốt truyện là “ông ngoáo ộp” dọa dẫm người cầm bút và cũng là nguyên nhân chung dẫn đến sự bế tắc của họ trong quá trình triển khai tác phẩm.

  • Trên thế giới, ít có loài hoa nào ra đời sớm, phổ biến với nhiều biểu trưng cao quý như hoa sen. Dáng hình đẹp, màu sắc trang nhã, hương thơm thùy mị, thanh khiết, không nhiễm bẩn... chừng ấy đức tính tốt đẹp đã đưa hoa sen thành biểu trưng cao quý của đạo Phật.

  • TRẦN ĐƯƠNGGoethe (1749-1832) hoạt động trên rất nhiều lĩnh vực và ở lĩnh vực nào ông cũng thâu tóm những tri thức đồ sộ, cũng đạt được những thành tựu xuất sắc. Tên tuổi ông trở thành niềm tự hào của cả dân tộc, được Các Mác gọi là người Đức vĩ đại nhất”.

  • AN CHÍNHCó lẽ Hồng Nguyên là một trong những nhà thơ rất thành công về việc dùng "tiếng địa phương trong thơ của mình.

  • Flier Andrei Jakovlevich(Tiến sĩ triết học, nhà văn hóa học của Nga)

  • HOÀNG NGỌC HIẾN    (Đọc "Văn hóa chính trị - truyền thống và hiện đại" (1) của Nguyễn Hồng Phong)Đây là công trình nghiên cứu tổng kết có tính chất chiến lược Chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX06 "Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội" do cố giáo sư Nguyễn Hồng Phong làm chủ nhiệm(2). Lịch sử những quá trình hiện đại hóa ở Việt Nam từ cuối t.k.XIX đến nay là một chủ đề quan trọng của công trình.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNHThực trạng của phê bình nghệ thuật hiện nay đang là một câu hỏi cần phải được trả lời.

  • THỦY THANHCuộc thi thơ dành cho người tàn tật ở Thừa Thiên Huế mặc dù "thời gian ứng thí" chưa đầy 2 tháng nhưng đã thu được kết quả đáng khích lệ. Với 33 tác phẩm của 7 tác giả nghiệp dư mang khuyết tật trên mình nhưng mỗi con người trong họ vẫn là "một thế giới một tâm hồn" lành lặn.

  • HOÀNG TẤT THẮNGMột trong những đặc điểm đặc thù của tiếng Việt là: các danh từ chỉ sự vật, hiện tượng, trạng thái, tính chất... không phải luôn chỉ đứng một mình mà thường kết hợp với một từ đứng trước với chức năng phân loại, chỉ đơn vị, biểu thái... trong lời nói. Chẳng hạn, sự vật thuyền trong tiếng Việt không phải chỉ có từ "thuyền" mà còn có "cái thuyền", "chiếc thuyền", "con thuyền", "lá thuyền", "mảnh thuyền"... các từ "cái - chiếc - con - lá - mảnh..." thường gọi là từ chỉ loại (hay là loại từ).

  • NGUYỄN THANH HÙNGVăn học thời đại nào cũng là sự du di cái nhìn thấm sâu vào đời sống. Thơ văn nói tới cái thật xa, rồi lại trở về với cái thật gần. Muốn đi xa, hành trang thơ phải gọn nhẹ, nhẹ chữ nhưng nặng lòng. Thơ Thiền là vậy. Mỗi câu thơ như một mũi tên bay vào tưởng tượng. Giữa những dòng thơ Thiền là một cõi chân như, vượt ra ngoài định giới môi trường xã hội quen thuộc, vì thế thơ Thiền thênh thang hướng đạo nhằm mục đích cứu sinh, đưa con người trở về với chính nó.

  • LÊ ĐẠT                Đường bụi trang lịch cũ                 ếp ếp đàn thời gian                                           L.Đ

  • HOÀNG NGỌC HIẾN             (góp phần định nghĩa minh triết)Tôi bắt đầu tiểu luận này bằng những suy nghĩ có liên quan đến chủ đề minh triết của hai học giả Việt Nam: Ngô Thời Sĩ (1740-1786) và Kim Định (1914- 1997).