Nguyễn Xuân Thâm trên đường dài với thơ

16:49 02/06/2008
Những năm từ 1950 khi học ở trường trung học Khải Định (Quốc học Huế), tôi đã đọc một số bài thơ của Dao Ca đăng trên một số tờ báo như Đời mới, Nhân loại, Mới, Thẩm mỹ...

Sau hiệp định Genève 7.1954, ra học trường cấp ba Huỳnh Thúc Kháng, tôi đã gặp anh Nguyễn Xuân Thâm và biết đó chính là Dao Ca. Đang học năm thứ hai chuyên khoa Quốc học Huế, đầu năm 1954, Nguyễn Xuân Thâm lên chiến khu Hòa Mỹ của Thừa Thiên rồi ra Nghệ An học trường Huỳnh Thúc Kháng ở Bạch Ngọc. Tháng 8 năm 1956, anh thi vào trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Tốt nghiệp kỹ sư năm 1960, anh được giữ lại trường làm cán bộ giảng dạy khoa Hóa thực phẩm. Bên cạnh việc giảng dạy và học tập, Nguyễn Xuân Thâm liên tục làm thơ, viết văn, cộng tác với nhiều báo và Đài Tiếng nói Việt . Anh lấy tên thật để ký dưới các bài thơ và hy vọng qua làn sóng của Đài Tiếng nói Việt , những người thân ở miền biết được anh đang còn sống. Làm biên tập chương trình Tiếng thơ nhiều năm, tôi đã thu thanh nhiều bài thơ của Nguyễn Xuân Thâm. Bài Cheo Reo của anh do nghệ sĩ Châu Loan trình bày là một trong nhiều bài được phát thanh nhiều lần với mấy câu mở đầu:
Cheo Reo Cheo Reo
Thuở ấu thơ mặc áo chàm theo mẹ
Tôi đến Cheo Reo.

Cheo Reo
Thưa thớt những buôn nghèo
Những Ma Chen, Ma Thít
Voi đi trong lũng hẹp.
Người Cheo Reo như cây mì...

Điều gửi gắm thầm kín của anh đã được bạn bè ở miền nghe chương trình Tiếng thơ báo cho gia đình anh biết. Nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp nói với người thân của anh: “Nguyễn Xuân Thâm còn sống và vẫn làm thơ, được phát thanh nhiều bài thơ”.
Năm 1964, phần Biển ấm của Nguyễn Xuân Thâm đăng cùng thơ của Nguyễn Nhã trong tập thơ Đồng xanh ở Nhà xuất bản Văn học. Năm 1973, Nguyễn Xuân Thâm có tập thơ Tiếng ong bay, năm 1985 có tập Nắng bên sông (in chung). Vừa dạy học, anh vừa học thêm tiếng Pháp và năm 1980, bảo vệ thành công luận án phó tiến sĩ: Nghiên cứu quá trình chuyển phân Prôtêin và lên men lắctic trong công nghệ mắm tôm chua của Việt . Anh thi đỗ đề giảng bài bằng tiếng Pháp cho bậc đại học ở nước ngoài nhưng sau đó lại phải học tiếng Bồ Đào Nha để dạy đại học ở . Bốn năm sống ở châu Phi, Nguyễn Xuân Thâm luôn tự phấn đấu để đủ trình độ dạy đại học. Anh cảm nhận được người châu Phi tốt và chân thực. Anh xúc động viết:
Tôi đi
Cỏ vương gót giày
Nhớ những cô gái da nâu
Với nụ cười trắng quá.
Ơi những trưa mưa đá
Tựa nước đổ trên đường
Những chiều Huambo gió
Ngồi lặng nơi sơn thôn...

Một năm không gặp sông

Bốn năm không gặp sông
Cuối dốc xin em một ngụm nước
Mi cong dài
Liễu của nhà ai liễu đỏ ơi

Tôi đi
Cứ dào dạt biển bờ
Cứ dào dạt
Thịt da châu Phi

Anh vừa chuẩn bị xong tập thơ mới tập Tìm trầm gồm 90 bài viết trong 15 năm qua, trong đó có 20 bài thơ viết cho thiếu nhi, phần Con gà đất bảy màu đã được giải thưởng của Nhà xuất bản Kim Đồng. Tập thơ ấy, anh đã gửi cho Nhà xuất bản Hội Nhà văn. Nhà thơ tâm sự:
“Với tôi, ngoài các chức năng khác, nhà thơ là người an ủi nhân dân mình, nhà thơ am hiểu và động viên nhân dân mình. Chặng đường làm thơ từ năm 1950 đến nay, như thế đã 50 năm, con đường dài lắm. Khi viết, tôi phải cố gắng kiếm những câu thơ trời cho. Công việc làm thơ cũng phải khổ luyện như người đi tìm trầm. Người ta phải ngậm ngãi tìm trầm. Trong thơ chữ nghĩa phải đàng hoàng, phải trong sáng, chữ nghĩa mang đậm nội dung của tâm hồn. Tâm hồn là mái nhà để thơ tìm ở. Mái nhà đây là mái nhà của người nghèo, của người lao động... Tôi viết chậm, thường nuôi một bài trong một quãng thời gian dài, đến lúc viết ra thì chỉ cần một đến hai giờ là xong”.
Từ năm 1956, khi ra ở Hà Nội, Nguyễn XuânThâm đã có dịp gần gũi nhà văn Hồ Dzếnh. Hồi đó, Hồ Dzếnh đang bán sách ở hiệu sách Bình Minh của ông. Ngày khai trường hằng năm, Hồ Dzếnh thường đem sách và văn phòng phẩm đến cho hai đứa con của Nguyễn Xuân Thâm. Nhà gần nhau, hai người có dịp trao đổi nhiều về văn thơ. Nhiều bài thơ của Nguyễn Xuân Thâm có bàn tay của Hồ Dzếnh sửa chữa. Nguyễn Xuân Thâm kể:
“Trong việc làm thơ, tôi được học nhiều ở bốn người thầy: Hồ Dzếnh, Xuân Diệu, Chế Lan Viên và Thanh Tịnh. Xuân Diệu chữa cho từng chữ cụ thể; Chế Lan Viên chỉ cho hướng chung; Thanh Tịnh chỉ cho đề tài; Hồ Dzếnh nhắc nhở làm thế nào cho câu thơ mềm mại. Quá trình tiếp xúc với bốn người thầy ấy làm cho tôi giàu có thêm về tâm hồn. Các người thầy ấy quá tốt, đúng là bốn thi sĩ. Anh Xuân Diệu dạy cho tôi nhiều nhất. Anh chữa cho từng chữ. Thậm chí có khi bài thơ của tôi được anh vẽ ra như một bức tranh:
Mùa thu này con dạy học ở Trung du
Sống trong ngôi nhà đá ong của mẹ
buổi sáng mẹ đi lấy nước thế nào, dáng nghiêng nghiêng ra sao...
Trong bài Đáy cá đêm, tôi viết:
Cá bạc đầy khoang khẳm lái êm.
Nhà thơ Xuân Diệu đề nghị chữa: Cá bạc vào khoang khẳm lái êm. Khi nhà thơ Tế Hanh đọc tập Đồng xanh đã khen chữ vào khoang ấy, chính là chữ của Xuân Diệu chữa. Tôi cũng học anh Huy Cận và được anh trao đổi, đọc thơ cho nghe. Huy Cận có câu thơ tài hoa: “Mưa xuân tưới tốt cả cây buồm”. Tôi thấy hay quá. Học Huy Cận, tôi viết: “Trăng chiếu tươi xanh cả ngọn sào”. Nhà thơ Xuân Diệu từng nói: “Chìa khóa thi ca Việt luôn luôn là tình yêu cuộc sống”. Đó là câu đầu tiên trong bài giảng đầu tiên của nhà thơ tại trường đại học Sorbonne ở Paris mà người thủ thư ở đây đã đưa cho tôi xem.
Có đi vào cuộc sống, gần gũi với nhân dân mới có thể viết được những bài thơ tốt”.
Năm 1955, khi học ở trường Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Xuân Thâm cũng như anh chị em học sinh Bình Trị Thiên chúng tôi gặp rất nhiều khó khăn trong đời sống vật chất. Thời gian nghỉ giữa hai học kỳ, Nguyễn Xuân Thâm cùng Dương Vân Đình, Trần Quang Sừng (sau này là Thứ trưởng Bộ Công nghiệp nhẹ) và một số bạn khác lên rừng chặt củi, chặt nứa đóng bè băng qua các con thác dữ dội trên sông Lam xuôi về Vinh, bán cho bà con xây dựng lại thị xã sau cuộc chiến tranh chống Pháp, lấy tiền ăn học, chuẩn bị kì thi tốt nghiệp. Ở bài thơ Ghi chép của người đi bè, Nguyễn Xuân Thâm viết về tâm trạng của chính những người trong cuộc vật lộn gian lao ấy:
Thác dựng như thành xây;
Đá đen cũng sủi bọt
Bè đánh đã rã tay
Thác qua rồi lại thác.

Vòi Voi, bè qua ngay
Bãi xuyên ngang đá bày
Bọt trào lại nước xoáy
Chèo chống không hở tay.
Ở Ninh Bình 3 tháng để dạy cho công nhân vừa làm ra 15 loại đồ hộp, sau một tuần đã được Bộ Y tế cho phép lưu hành, Nguyễn Xuân Thâm viết được bài thơ Đứng trêncầu Chà La:
Tôi với mặt trời trưa đứng trên cầu Chà Là
Dưới kia thời gian chảy
Màu hoa bìm bìm chảy
Ngòai xa làng mạc lèn đá sông Đáy
Có mùi khói hun thuyền
Kỉ niệm đã dìm xuống lại vớt lên
Nỗi buồn còn ướt.
Nhiều bài thơ của Nguyễn Xuân Thâm để lại trong lòng người đọc những ấn tượng khá sâu sắc. Trống và lửa mang hơi rộn rịp, khẩn trương của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên nhất tề đứng lên chống Mĩ cứu nước:
Trống giục lửa, lửa vào buôn, người Ê Đê cầm ná
Lửa vào làng, người Gia Rai vót chông
Lửa lên nương sáng ngọn mác Mơ Nông
Nghe tiếng trống người Hơ Rê băng rừng về như nước lũ
N’Trang Lơn cùng về từ Ba Ranh giới
Lửa anh hùng Núp chín năm trời đốt tranh ăn thay muối
Trống dội từ trong trường ca Xinh Nhã, Đam San.
Bài thơ Cái chết của em Dần được Nguyễn Xuân Thâm viết ngay sau khi nghe báo cáo vụ Mĩ ném bom xuống trường Hương Phúc ở Hà Tĩnh. Từ chi tiết cụ thể về hai củ khoai trong túi của em Dần khi em đã bị giết hại, nhà thơ đã diễn đạt một cách giản dị gây xúc động cho người đọc:
Em Dần chết chưa ăn cơm trưa
Em chết với hai củ khoai trong túi áo
Mẹ đào đất lên, đất chảy máu
Em Dần ơi sao mẹ gọi không thưa
Em chẳng còn, em mười tuổi mãi
Vạch em đo trên tường đêm nay dừng lại
Mười năm sau, mười năm nữa Dần ơi
Em chết rồi với hai củ khoai
Nhà thơ Tế Hanh kể lại khi dịch bài thơ này qua tiếng Pháp, nhà báo Pháp Madeleine Riffaud đọc đã nói: “Ở Pháp nếu buổi tối cha mẹ quên không cho trẻ con ăn mà nó đi ngủ, đó là điều đau khổ của cha mẹ. Còn em Dần chết chứ không phải ngủ quên, chết mà chưa ăn cơm trưa lại còn hai củ khoai trong túi áo là nỗi đau khổ của nhân loại”.
Người đọc có thể thấy rõ không khí man mác và cả nét cổ xưa trong bài Tuy lí vương phủ, Về thôn Vĩ. Vẫn hoa cau, nắng, áo trắng, ngõ xưa xanh biếc như trong thơ Hàn Mạc Tử mà vẫn có những nét riêng của Nguyễn Xuân Thâm:
Vườn cây bóng lá chiều mưa thưa
Làng chính làng ngày ta bé thơ
Áo trắng đi về đâu áo trắng
Vườn nắng ngày xưa thi sĩ xưa
Ngoài thơ, nhà thơ Nguyễn Xuân Thâm còn viết bút ký, truyện ngắn, hồi ký. Nguyễn Xuân Thâm luôn xác định mình còn phải đi trên con đường dài thăm thẳm của thơ, đi tìm những câu thơ trời cho và đi khắp nơi “mai thượng du nay đang biển mù” để:
Trái tim dầu dãi như lá cỏ
Gió lang thang đốt xém mùa qua
Cứ đi mãi chút gì còn đó
Cát bụi đường dài run rẩy thơ
(Đường dài)
 Hà Nội 10 - 2000

TRẦN PHƯƠNG TRÀ
(nguồn: TCSH số 152 - 10 - 2001)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN THỊ KIM THANH(Nhân đọc Tập thơ Ngày đầu tiên của Trần Hữu Lục - NXB Hội Nhà Văn, 01-2010)

  • HOÀNG NHƯ MAI - NGUYỄN VĂN HẤN Cùng với những tập quán cổ truyền ngày Tết dân tộc, từ cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay, nhân dân ta đã có thêm một tập quán quý báu nữa: đọc thơ chúc Tết của Bác Hồ.

  • NGÔ MINHTôi đọc và để ý đến thơ Đông Hà khi chị còn là sinh viên khoa văn Trường Đại học Sư phạm Huế. Thế hệ này có rất nhiều nữ sinh làm thơ gây được sự chú ý của bạn đọc ở Huế và miền Trung như Lê Thị Mỹ Ý, Nguyễn Thanh Thảo, Huỳnh Diễm Diễm.v.v... Trong đó có ấn tượng đối với tôi hơn cả là thơ Đông Hà.

  • NGUYỄN ANH TUẤNKhông gian trữ tình không là một địa danh cụ thể. Mặc dù có một “thôn Vĩ” luôn hiện hữu hết sức thơ mộng trên toàn đồ trực diện thẩm mỹ của bài thơ, với những màu sắc, hình ảnh, đường nét:…

  • KHÁNH PHƯƠNGNhân cách văn hóa của nhà văn có thể được biểu hiện bằng những hành động, thái độ trong đời sống, nhưng quan trọng hơn, nó chi phối nhân cách sáng tạo của nhà văn.

  • HỒNG DIỆUTrương Mỹ Dung đời Đường (Trung Quốc) có một bài thơ tình yêu không đề, được nhiều nhà thơ Việt Nam chú ý.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LANMột hôm chú Văn tôi (Hải Triều Nguyễn Khoa Văn) đọc cho cả nhà nghe một bài thơ mà không nói của ai.

  • NGUYỄN QUANG HÀTôi nhớ sau thời gian luyện tập miệt mài, chuẩn bị lên đường chi viện cho miền Nam, trong lúc đang nơm nớp đoán già đoán non, không biết mình sẽ vào Tây Nguyên hay đi Nam Bộ thì đại đội trưởng đi họp về báo tin vui rằng chúng tôi được tăng viện cho chiến trường Bác Đô.

  • LÊ HUỲNH LÂM(Đọc tập truyện ngắn “Thõng tay vào chợ” của Bạch Lê Quang, NXB Thuận Hóa, 11/2009)

  • LÊ VŨ(Đọc tập thơ Nháp của Ngọc Tuyết - NXB Thanh niên 2009)

  • NGÔ MINHÐọc lại Chiếu Dời đô, tôi bỗng giật mình trước sự vĩ đại của một quyết sách. Từng câu từng chữ trong áng văn chương bất hủ này đều thể hiện thái độ vừa quyết đoán dứt khoát với một lý lẽ vững chắc, vừa là một lời kêu gọi sự đồng thuận của triều thần với lời lẽ rất khoan hòa, mềm mỏng.

  • LÊ HUỲNH LÂMThơ không thể tách rời đời sống con người. Điều đó đã được thời gian minh chứng. Từ lời hát ru của mẹ, những giọng hò trên miền sông nước,… đã đánh thức tình yêu thương trong mỗi chúng ta.

  • KHÁNH PHƯƠNGNgay từ thuở cùng Trần Mai Châu, Vũ Hoàng Địch, Vũ Hoàng Chương viết tuyên ngôn Tượng trưng, Trần Dần đã mặc nhiên khảng khái công bố quan niệm, thơ bỏ qua những biểu hiện đơn nghĩa của sự vật, sự kiện, đời sống, mà muốn dung hợp tất cả biểu hiện hiện thực trong cõi tương hợp của cảm giác, biến nó thành không gian rộng lớn tiếp biến kỳ ảo của những biểu tượng tiềm thức. Như vậy cũng có nghĩa, nhà thơ không được quyền sao chép ngay cả những cảm xúc dễ dãi của bản thân.

  • NGUYỄN CƯƠNGSư Bà Thích Nữ Diệu Không (tục danh Hồ Thị Hạnh) sinh năm 1905 viên tịch năm 1997 hưởng thọ 93 tuổi. Lúc sinh thời Sư Bà trụ trì tại Chùa Hồng Ân, một ngôi chùa nữ tu nổi tiếng ở TP Huế, đã một thời là trung tâm Phật giáo ở miền Nam.

  • HỒNG NHU    (Đọc tập “Chuyện Huế” của Hồ Đăng Thanh Ngọc - NXB Thuận Hóa 2008)

  • NGUYỄN ĐÔNG NHẬTĐọc xong tập sách do họa sĩ Phan Ngọc Minh đưa mượn vào đầu tháng 6.2009(*), chợt nghĩ: Hẳn, đã và sẽ còn có nhiều bài viết về tác phẩm này.

  • NGUYỄN HỮU QUÝ         (Mấy cảm nhận khi đọc Chết như thế nào của Nguyên Tường - NXB Thuận Hóa, 2009) Tôi mượn thuật ngữ chuyên ngành y học (Chăm sóc làm dịu=Palliative Care) để đặt tít cho bài viết của mình bởi Phạm Nguyên Tường là một bác sĩ điều trị bệnh ung thư. Tuy rằng, nhiều người biết đến cái tên Phạm Nguyên Tường với tư cách là nhà thơ trẻ, Chủ tịch Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế hơn là một Phạm Nguyên Tường đang bảo vệ luận án tiến sĩ y khoa.

  • LÊ THỊ HƯỜNGTìm trong trang viết là tập tiểu luận - phê bình thứ 3 của Hồ Thế Hà. Sau những ngày tháng miệt mài “Thức cùng trang văn” (viết chung với Lê Xuân Việt, được giải thưởng Cố đô 1993 - 1997), Hồ Thế Hà lại cần mẫn “tìm trong trang viết” như một trăn trở đầy trách nhiệm với nghề.

  • MAI VĂN HOANNguyễn Công Trứ từng làm tham tụng bộ lại, Thị lang bộ Hình, Thượng thư bộ Binh... Đương thời ông đã nổi tiếng là một vị tướng tài ba, một nhà Doanh điền kiệt xuất. Thế nhưng khi nói về mình ông chỉ tự hào có hai điều: Thứ nhất không ai "ngất ngưỡng" bằng ông; thứ hai không ai "đa tình" như ông. Nguyễn Công Trứ "ngất ngưỡng" đến mức "bụt cũng phải nực cười" vì đi vào chùa vẫn mang theo các cô đào.

  • SICOLE MOZETBà Nicole Mozet, giáo sư trường Paris VII, chuyên gia về Balzac và là người điều hành chính của các hội thảo về Balzac đã làm một loạt bài nói chuyện ở trường Đại học ngoại ngữ Hà Nội, trường Đại học sư phạm Hà Nội, Nhà xuất bản thế giới... Chúng tôi trích dịch một đoạn ngắn trong bản thảo một bài nói chuyện rất hay của bà. Lúc nói bà đã phát triển những ý sau đây dưới đầu đề: Thời gian và tiền bạc trong Eugénie Grandet, và đã gợi cho người nghe nhiều suy nghĩ về tác phẩm của Batzac, cả về một số tác phẩm của thế kỉ XX.