Nguyễn Văn Vĩnh, một dịch giả uyên bác

15:43 26/04/2010
THU TRANG (Paris) Có thể từ đầu thế kỷ, do hoàn cảnh lịch sử, người Việt Nam đã tiếp cận văn hóa Pháp. Chúng ta phải công nhận phần ảnh hưởng phong phú do các luồng tư tưởng, quan niệm Tây phương đã tác động đến giới trí thưc và văn nghệ sĩ nhiều ngành.

Dịch giả Nguyễn Văn Vĩnh - Ảnh: nguyenvanvinh.net

Nếu cuối thế kỷ XIX các nhà nho còn đọc những tác giả lớn của văn hóa Pháp như: Voltaire, Montesquieu, J. J. Rousseau qua bản dịch chữ Hán, thì đầu thế kỷ XX các vị trí thức - một phần tuy ít - đã đọc thẳng Pháp ngữ. Thế hệ này đã có một số vị rất am hiểu không những Pháp ngữ mà cả phần nào nền văn minh châu Âu. Một số đã dịch văn thơ Pháp sang Việt ngữ, và cũng có những tác phẩm Việt Nam dịch sang Pháp ngữ. Trên phạm vi học thuật này, không kể về chính kiến, thì chúng ta có những trí thức uyên bác, thông thái. Phải làm thống kê mới xác định được có bao nhiêu công trình dịch thuật từ hai phía: Thơ, văn Việt Nam và các nước ngoài; Trung Hoa, Nhật Bản, Pháp, Anh, Mỹ v. v... Các vị này đã xứng đáng là học giả trong công việc giao lưu văn hóa, giới thiệu nền văn minh Việt Nam. Riêng hai tiếng Pháp Việt từ thời ấy đã có vài vị đã biên dịch một cách hữu hiệu với tinh thần khách quan, bình đẳng... không mặc cảm. Những công trình của họ vẫn giữ nguyên giá trị cho đến hiện tại. Một trường hợp khá rõ và đáng nhắc nhở đó là: Nguyễn Văn Vĩnh với bản dịch KIM VAN KIEU. Nguyễn Văn Vĩnh (1882 - 1936) có lẽ là một trong những trí thức đầu tiên thông thạo Pháp ngữ thời đầu thế kỷ XX ở miền Bắc. Miền Nam vì do chế độ thuộc địa, nên tiếng Pháp đã được dạy sớm hơn so với chế độ bảo hộ ở Bắc. Cho nên giới làm thông ngôn và một số công chức trung cấp thuở ấy đa số là người miền Nam (Nguyễn Tuân, Vang bóng một thời, trang 16). Tuy vậy, tại Hà Nội đã có một dịch giả, mà tôi nghĩ nên trân trọng và giới thiệu ngay cả đối với độc giả hiện nay:

"Nguyễn Văn Vĩnh đã chuyển Kim Vân Kiều từ chữ Nôm sang Quốc ngữ từ năm 1906. Rồi từ Quốc ngữ ông dịch sang Pháp văn và đã giới thiệu trên báo tiếng Pháp vào những năm 1908 đến 1910 trên hai tơ: Notre Journal Notre Revue. Có lẽ đó là những bản dịch đầu tiên. Từ năm 1913 đến 1917 ông lại in trên nhiều số Đông dương tạp chí bản tiếng Pháp, dịch lần thứ hai. Và ông lại vẫn chưa ưng ý, nên vẫn tiếp tục sửa chữa cho đến năm 1933. Kỳ này ông đã công bố trên tờ L'Annam Nouveau, nhưng chỉ đến năm 1942 mới được nhà xuất bản Alexandre de Rhodes in tại Hà Nội" (Trích trong Lời tựa của Hữu Nhuận, trong bản dịch trên do NXB Văn học tái bản năm 1994).

Tôi được một người bạn nhà văn tặng cho tập sách quý này, song ngữ với chú thích bình luận, có những minh họa của Mạnh Quỳnh. Sách đã tái bản... một cách muộn màng vào năm 1994. Đối với tôi, lần đầu tiên tôi đọc bản dịch này... dù muộn còn hơn không. Vì thật là một niềm vui lớn, tôi đã khám phá nhiều điểm son trong dịch phẩm này. Có thể nói là một hạnh ngộ. Vì đối với tôi đó là một công trình văn hóa đầy đủ ý nghĩa trong phạm vi dịch thuật. Ai cũng biết câu: dịch là phản. Thật có phần đúng trong một vài khía cạnh nào đó. Chẳng hạn dịch thơ, không thể đòi hỏi dịch được chất thơ, mà chỉ là ý nghĩa câu thơ là chính. Chủ quan tôi cho là thơ không thể dịch, mà chỉ có thể phóng tác. Vì mỗi ngôn ngữ có chất nhạc riêng, hình ảnh riêng và linh hồn riêng của nó. Chắc ai cũng công nhận trong tiếng mẹ đẻ của mỗi nước đều có chiều sâu lịch sử, và văn minh đã quyện vào với sức sống và sự tiến hóa song song của dân tộc ấy. Cho nên người ta đã mệnh danh là langue vivante: ngôn ngữ sống. Vì ngôn ngữ chuyển mình cùng thời đại. Chính vì vậy, khi đọc dịch giả Nguyễn Văn Vĩnh, tôi đã chiêm nghiệm qua công việc này, ông đã thể hiện tinh thần một sĩ phu và với tư cách một trí thức tân học một cách vừa thông thái lẫn đĩnh đạc. Ông không đao to búa lớn nhưng đã thể hiện nhân cách của người có ý thức tự trọng, độc lập. Ông đã biên dịch văn bản của Nguyễn Du kèm những phần chú thích và bình luận thật khúc chiết và thông minh bằng Pháp văn. Đồng thời ông cũng diễn nghĩa những vần thơ cổ Hán văn, giải đáp những thành ngữ trong thơ, văn hoặc phong tục Trung Quốc, Việt Nam từng thời đại một cách rõ ràng, minh bạch. Những gì ông nghi ngại thì cũng tỏ thái độ, chính vì vậy độc giả cảm nhận sự thận trọng từng câu, từng chữ của tác giả. Còn đối với độc giả Pháp thì phần dịch, tuy chỉ khuôn vào tác phẩm Kiều, nhưng khi đọc những lời chú thích và bình giải của ông, là có thể nắm bắt được khá nhiều về phong tục, cách xử thế, phong cách sống v. v... nói chung là bản sắc dân tộc của người Việt. Một công mà hai việc, ông đã khơi gợi sự hiểu biết, sự thông cảm mối khác biệt giữa hai sắc thái văn minh Âu và Á. Rất có thể ông đã cố ý tạo nên sự giao lưu cần thiết giữa hai cộng đồng Pháp Việt ở Việt Nam thời bấy giờ? Ít ra... đối với giới trí thức Pháp. Đó là một phương tiện dùng văn hóa cho mục đích chính trị chăng? Có thể suy luận như vậy khi ta là người dân bị lệ thuộc, gò bó trong chính sách hà khắc, lẫn nham hiểm và khôn khéo của tập đoàn thực dân Pháp, vào những năm đầu của phần ba thế kỷ này. Thời ấy, đa số đồng bào ta bị chính quyền Pháp khinh thị, vì thất học và nghèo khổ. Thế hệ tân học đầu tiên - ở miền Bắc - được Pháp đào tạo với mục đích là để thành những công chức, mà Tản Đà đã ngán ngẩm sau một dịp đi thi:

Cử, tú, ấm sinh vài chục kẻ.
Tây, Ta, quốc ngữ bốn năm kỳ.
Đĩa nghiên, lọ mực, bìa bao sách.
Thước kẻ, đanh ghim, ngọn bút chì...

Tâm trạng của những người sống vào lúc giao thời ấy chắc là cảm thấy chông chênh, hoang mang trong cảnh xã hội bị thay đổi tận gốc rễ. Việt Nam bị đảo lộn hệ thống văn minh của nghìn đời. Tâm thức họ hẳn bị giằng xé, nhất là đối với những người có tình thần dân tộc... Những người năng động và không chịu cúi đầu trước số phận, họ đã bước tới sự tìm hiểu văn hóa của... kẻ cai trị. Sự kiện ấy gây thành nhiều tâm trạng. Có thể có người rất thấm thía khi họ đạt đến trình độ hiểu biết văn hóa, văn minh Tây phương. Nhất là khi thấy Nhật Bản đã trở nên hùng cường vì đã áp dụng bài học duy tân sớm. Niềm tự ái của lớp sĩ phu lại càng xót xa nhức nhối... và bế tắc. Những bài trần tình, của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch trước dó và kế tiếp là các vị nhà nho thời Đông kinh Nghĩa thục. Không phải các vị ấy thiếu óc canh tân, nhưng họ bị trói buộc trong hoàn cảnh bế tắc; nhân dân yếu kém, đất nước nghèo khổ, bị kìm cặp trước đó là trong chế độ phong kiến, sau là chế độ thực dân.

Ông cha ta đấm cửa cuộc đời. (thơ Chế Lan Viên) và đời của đa số những ai dám đấm cửa ấy đã tàn tạ trong tù ngục... Cho nên NGuyễn Văn Vĩnh khi bình giải hai chữ: = đề huề bằng Pháp văn, ông đã khen cụ Phan Chu Trinh đã rất khôn khéo dùng bốn chữ Pháp Việt đề huề. Ông cho là dịch sát ý; chữ collaboration sẽ phải dùng chữ Việt là: hợp tác, hoặc là cộng tác, nhưng sẽ hơi khô khan không nói lên tinh thần thân thiện, thông cảm nhau, bạn bè bằng hai từ đề huề. = (trang 72 số chú thích 67). Độc giả Pháp đọc những kiểu giải nghĩa như vậy, nếu là giới trí thức thì tác động đối với họ có thể là rất tốt. Họ không có thiện cảm thì ít ra cũng có mỹ cảm đối với ngôn ngữ và sự ý nhị trong cách sử dụng câu chữ của tiếng Việt. Và hiểu thêm ý trong câu thơ rất trang nhã của Nguyễn Du: Đề huề lưng túi gió trăng, đã gợi được vẻ thong dong, nhàn tản. Còn người Việt thời ấy, khi nghe chủ trương của cụ Phan là; Pháp Việt đề huề thì có lẽ cũng dễ gây cảm tưởng... không quy lụy quá đáng đối với chính quyền thực dân... (nhưng có lẽ cũng vì vậy mà Phan Chu Trinh bị nghi là thân Pháp?). Để giành lại quyền làm người, các nhà nho thời ấy không thể chơi chữ được với kẻ thù ngoan cố... Nguyễn Văn Vĩnh cũng biết vậy, nhưng ông vẫn không dừng bút khi có dịp nêu lên sự bất công của chính sách thực dân là che chở nhóm quan lại tay sai của Pháp, vì chính họ là những kẻ tham nhũng, bất tài... Ông đã mượn hai câu thơ trong cảnh nàng Kiều đành phải bán mình để giải thoát cho cha, và khéo léo bình luận: Một ngày lạ thói sai nha. Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền. " Ngày nay, dưới chế độ bảo hộ Pháp, báo chí của chúng tôi đều bị kiểm duyệt kỹ càng những bài dù hơi có ý chỉ trích quan trường. Nhưng tờ báo nào dám lên tiếng đả kích dữ dội các quan lại, thì tác giả những bài ấy bị tù đày đến chết. So sự kiện ấy với đoạn này trong Truyện Kiều thì quả thật là Nguyễn Du đã trở nên nhà thơ bất tử". Ông dụng ý cho là Nguyễn Du có tinh thần trọng công lý hơn tập đoàn thực dân. Trong câu văn Pháp rất rõ điều ấy (trang 212 chú thích số 267). Cách nhìn này đối với hiện tại vẫn có giá trị đối với xã hội kinh tế thị trường!

Bây giờ chúng ta đọc những câu như vậy có lẽ không cảm thấy sức nặng của sự hàm ý và thái độ can đảm của dịch giả, như những năm 1908 đén 1933, thời gian ông in Kiều bản tiếng Pháp. Điều đáng chú ý là với tinh thần dịch giả, ông nhắm vào độc giả Pháp với thâm ý phải làm cho họ hiểu được đúng những điều ông muốn. Vì lẽ đó ông đã bỏ công để chữa đi chữa lại cho thật hoàn toàn. Một phần tư thế kỷ dành cho công trình, một sự kiên nhẫn với thái độ đáng kính phục. Vì những năm tháng ấy, chính quyền Pháp đã dùng rất nhiều thủ đoạn để ngăn chặn những mầm mống, ý chí chống đối của đồng bào ta dù nhỏ bé mỏng manh nhất. Kể cả sự chống bọn tay sai của thực dân, là tập đoàn quan lại. Vì suốt những năm từ thời Đông kinh nghĩa thục bị đàn áp, đa số các nhà nho ở tại ba miền đất nước - tuy không công khai - nhưng ngấm ngầm phản kháng Pháp (biến cố đẫm máu năm 1908 ở miền Trung là một thí dụ). Các trí thức tân học, những ai có tâm huyết cũng... cảm thấy nỗi nặng nề ám ảnh tâm hồn. Có nhiều nhà văn, nhà thơ thời ấy, tâm tư họ là sầu muộn, chán đời, thương vay khóc mướn, lạc lõng bơ vơ và đôi lúc cảm thấy gần như mất cả hy vọng.

Nghĩ đời lắm nỗi không bằng mộng
Tiếc mộng bao nhiêu lại ngán đời... (thơ Tản Đà)

- Hai bờ sống chết đời ru võng.
Trăng rộng, triều xa, gió cảm thông (thơ Huy Cận)

Căn cứ vào tâm trạng của các nhà thơ như trên, chúng ta ngạc nhiên khi thấy Nguyễn Văn Vĩnh đã diễn tả nỗi buồn bực của ông một cách công khai. Ông không có tự ty mặc cảm ngay đối với kẻ đang có chức có quyền. Ông đã lên tiếng... gần như chê Pháp ngữ. Trong khoa tâm lý, cử chỉ này là do một số ẩn ức, khó chịu đã ăn sâu trong tâm thức, nên người mang nó khi cần giải tỏa thì có dịp là bung ra, hoặc thổ lộ bằng nhiều hình thức... Nhưng ông lại có đủ lý luận để đưa ra những thí dụ rõ ràng, chứng minh là tiếng Pháp... có khi nghèo hơn tiếng Việt thật. Thí dụ trong cách diễn tả, về những cảm giác hoặc mùi vị. Về chữ xót, chẳng hạn. Ông không có sự dè dặt, thậm chí luồn cúi đối với người Pháp như một số trí thức tân học thời bấy giờ. Ông bình luận về chữ này: "Xót không có chữ tương đương trong tiếng Pháp. Vì chữ xót này không chỉ sự xót trên một vết thương thân thể, khi vết thương ấy bị một thứ nước chua hay mặn dính vào, hoặc bị lạnh. Chữ xót còn diễn tả cho cả nỗi đau tinh thần, trong tình gia tộc hay tình cảm đối với những kẻ thân yêu; xót xa, xót thương v. v..." (trang 330 chú thích số 397). Ông cũng định nghĩa về chữ bùi, và cho là trong tiếng Pháp không có từ này (trang 437 chú thích số 562). Hoặc về chữ nói của tiếng Pháp, đối chiếu sang tiếng Việt, chúng ta có khá nhiều từ để diễn tả tùy theo từng trường hợp như: thưa, bẩm, trình là đối với người trên, dạy, truyền, bảo là người trên nói với người dưới. Nhưng nhủ, dạy là cha mẹ nói với con, hoặc với người thân tình có tính cách mến thương" (trang 78 chú thích số 106). Ai biết tiếng Pháp, đọc so sánh trên thú vị biết bao...

Tất nhiên là phải đặt ta vào bối cảnh của thời ấy mới thấy được thái độ ngang nhiên của một người dân bị lệ thuộc đã lên tiếng... như vậy đối với tiếng của mẫu quốc. Tôi cũng hơi phân vân trong cách đánh giá này. Vì có khi chính ông với cách nhìn khoa học đã không có ý gì ngoài sự nhận thức khách quan. Ông đã có thái độ thẳng thắn trong khi cần bình giải? Chẳng hạn ông cũng dám.. phê Nguyễn Du là... tả những đêm có trăng không mấy khi đúng hướng và ngày (trang 331 chú thích số 401, 402). Thậm chí có câu thơ, ông cho là rất đẹp như vô nghĩa (trang 331 chú thích số 403) - Lạc đàn mang lấy nợ nần yến anh...

Nguyễn Văn Vĩnh cũng đã nói lên một ý, đó là sự thiếu tự do trong sáng tác. Nên kể cả thời trước Pháp thuộc, mà chính trình đình Huế đã cho là... khi quân khi Kiều đã thốt: - Tấn Dương được thấy mây rồng có phen. Ngụ ý là những kẻ cướp mà tài giỏi cũng có khi trở thành vua chúa. Vì vậy nên bản Huế đã đổi: Rồng mây rõ mặt anh hùng có phen.. Chú thích này đã hé cho độc giả thấy một vài nét câu nệ kiểu phong kiến. Đó là thái độ của các quan triều Nguyễn đã ghiêm khắc thái quá, đối với một tập truyện bằng thơ. Chính quyền Pháp không thể trách ông, vì ông cũng đề cập về sự gò bó chặt chẽ trong sáng tác ở Việt Nam khi vua quan để mắt tới... (trang 610 chú thích số 688). Ông Vĩnh cũng đã nhắc là vua Tự Đức đã không thích câu: Dọc ngang nào biết trên đầu có ai. (trang 675 chú thích số 743).

Đọc một công trình như bản dịch Kim Vân Kiều của Nguyễn Văn Vĩnh, độc giả nếu chú tâm sẽ học hỏi được nhiều điều bổ ích. Vì ngoài những điểm kể trên, trong phần bình giải chú thích, ông đã ghi chú những tư tưởng Phật giáo mà Nguyễn Du đã lồng vào Truyện Kiều. Qua đó, những ai chưa hề biết gì về đạo Phật - đối với độc giả Pháp - thì cũng sẽ hiểu được đôi phần về quan niệm sống của người theo đạo Phật. Đời người với sự thăng trầm là do hệ luỵ của nhân quả từ nhiều kiếp. Ông cũng đề cao tinh thần bác ái, nhân nghĩa là những điểm cốt lõi trong nhân sinh quan của người Việt Nam. Tóm lại, qua phần bình luận và chú thích ông đã dùng ngòi bút một cách thông minh, khéo léo trong công việc dẫn dắt độc giả Pháp, giúp cho họ hiểu biết văn hóa Á Đông. Trong đó có văn hóa đặc thù riêng, phong cách sống, tâm linh riêng của người Việt. Với sự hiểu biết sâu rộng cả hai văn hóa Đông Tây, ông tỏ ra rất thông thạo về các điển tích trong thơ Trung Quốc của từng thời đại, và biết cách cắt nghĩa cho độc giả Pháp tiếp thu... Có điều gì ông đoán là họ sẽ bỡ ngỡ là ông không ngại giải thích tường tận. Phần dịch từng chữ Việt sang chữ Pháp cũng thật công phu. Đây là một tác phẩm có ích về nhiều địa hạt văn thơ, điển tích và đặc biệt cho những ai đang học Pháp ngữ.

Nguyễn Văn Vĩnh xứng đáng là một trong số các nhà văn hóa lỗi lạc của Việt Nam trong thế kỷ XX. Tôi đồng ý với cách đặt vấn đề của Tạp chí XƯA và NAY: (số 1 - Xuân 1996, tr. 13) "... "đánh giá một nhân vật lịch sử là một việc làm không đơn giản". Vì lý do ấy, tôi xin trích một vài ý của Phan Khôi, là một học giả sắc sảo, từng sống một thời với Nguyễn Văn Vĩnh đã viết một bài vào dịp ông Vĩnh qua đời vào năm 1936, mà tạp chí trên đã đăng lại. Phan Khôi đã cân nhắc về văn nghiệp và thái độ chính kiến của ông Vĩnh, rồi đặt bút ngay ở những dòng đầu:

"Tôi phục ông Vĩnh ở chỗ có chí tự lập, không mộ hư vinh.. " Phan Khôi đã kể qua một vài điều mà thời ấy có kẻ yêu, người ghét ông Vĩnh, nên có người đòi đúc tượng ông để đời ngưỡng mộ, có kẻ thì lại có ý ngược hẳn. Riêng tôi rất mong ước sẽ còn nhiều người tiếp tục nghiên cứu về nhà học giả này. Phan Khôi đã kết luận:

"Trong con mắt tôi, ông Nguyễn Văn Vĩnh là một trang hào kiệt, Mạnh Tử có nói: Đến như kẻ sĩ hào kiệt thì dù không có Văn Vương cũng dấy lên. Trong câu nói ấy thấy người hào kiệt đầy cái khí phách tự lập đúng như cái khí phách của ông Nguyễn Văn Vĩnh chúng ta".

Phan Khôi đã công nhận ông Vĩnh một người có khí phách. Trong cách nhìn của kẻ hậu thế sau hơn 60 năm, với bối cảnh khác hẳn, tôi ngẫm nghĩ khí phách ấy có thể là tương đồng với nét hiên ngang trong phong cách của một nhà văn hóa lớn. Ông Nguyễn Văn Vĩnh đã xứng đáng là một tấm gương mẫu mực trong địa hạt giao lưu văn hóa, một nhà dịch thuật thông thái, một trí thức độc lập, tự trọng mà nhiều thế hệ cần học tập. Nhất là vào dịp xu thế hoàn cầu hóa hiện nay. Việt Nam cần mở các cánh cửa của nền văn minh Lạc Hồng bằng cách nên dịch những tác phẩm cổ kim nhiều thể loại có giá trị đích thực. Hiện nay lác đác đã có một vài nhà văn đã được dịch. Cần giới thiệu nhiều hơn với độc giả thế giới về văn hóa, cội nguồn của ta, cùng với các ngành nghệ thuật khác để họ biết một vài phần một nước đã có bao nghìn năm văn hiến.

Paris những ngày gần Tết Canh Thìn
Tháng 1/2000
T.T
(137-07-00)




Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!

  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.

  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H

  • TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.