THÁI PHAN VÀNG ANH
Năm 2017, toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Thị Thụy Vũ, một trong những nhà văn tiêu biểu của văn học nữ miền Nam Việt Nam giai đoạn 1955 - 1975, đã được Phương Nam Book và Nhà xuất bản Hội Nhà văn in lại.
Nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ
Sự xuất hiện trở lại của Nguyễn Thị Thụy Vũ là một bằng chứng cho thấy ý nghĩa nhất định của văn học miền Nam, nhất là văn học nữ. Sau một độ lùi thời gian, sau những khoảng cách về định kiến, tác phẩm của Nguyễn Thị Thụy Vũ vẫn giữ được giá trị. Những câu chuyện phụ nữ mà Nguyễn Thị Thụy Vũ đề cập cách đây hơn 40 năm vẫn không hề “cũ”. Quan niệm sáng tạo, những lập ngôn về giới của tác giả vẫn có tính thời sự và hiện đại, dù cái nhìn về giới nữ ở thế kỷ XXI đã tiến bộ hơn nhiều so với trước. Trong bối cảnh xã hội đương thời, khi cái nhìn về việc phụ nữ viết văn còn dè dặt, thì với Nguyễn Thị Thụy Vũ viết là một hành động vượt thoát, vượt thoát khỏi những giới hạn của thời đại, của định kiến xã hội. Chính tư duy mới mẻ đó khiến tác phẩm của Nguyễn Thị Thụy Vũ đã sống được với thời gian, tiếp tục được chào đón bởi những thế hệ độc giả khác.
So với các nhà văn nữ cùng thời như Nguyễn Thị Hoàng, Trùng Dương…, Nguyễn Thị Thụy Vũ xuất hiện chậm hơn. Tuy vậy, truyện ngắn và tiểu thuyết của bà gây nhiều chấn động trên văn đàn. Theo Tạ Tỵ, Nguyễn Thị Thụy Vũ “tự tạo cho mình một thế đứng, một cương vị trong nền văn học Việt Nam hiện đại”; “bút pháp cũng như nội dung mỗi truyện của Thụy Vũ không nằm trong khuôn nếp thông thường của một nữ nhi, nó đã bay ra ngoài quỹ đạo dự tưởng”1. Theo nhà văn Lê Văn Nghĩa: “Bà trở thành nhà văn đầu tiên và duy nhất đưa vào văn học Sài Gòn thân phận phụ nữ của một thời bom đạn”2. Sự táo bạo trong lựa chọn đề tài, trong nghệ thuật miêu tả, kể chuyện; những đổi mới trong quan niệm khiến Nguyễn Thị Thụy Vũ xác lập được một lối viết riêng trong bức tranh vừa đa dạng vừa thống nhất của văn chương nữ miền Nam (1955 - 1975).
1. Vượt thoát những định kiến về đàn bà viết văn
Khi sự “lên tiếng” của phụ nữ bắt đầu vọng lại từ phương Tây, ở Việt Nam, khát vọng và hành động viết là sự vượt thoát chính mình của những người đàn bà cầm bút. Khác với các cây bút nữ giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, “các nhà văn nữ của chúng ta không chỉ xem công việc viết văn của họ như một tiêu khiển chốc lát như các nhà văn nữ tiền chiến. Nhà văn nữ ngày nay xem công việc viết văn như một nghề. Họ sống hẳn với nghề này, theo đuổi và thực hiện nó đến cùng”3. Cả một thế hệ nhà văn “không còn chịu đứng trên một đường lề chênh vênh nào nữa, mà đã ở hẳn trong sinh hoạt, có mặt ở hết thảy mọi địa hạt trước kia chỉ là sự có mặt duy nhất của nam giới”4.
Ngay từ những ngày đầu xác định chỗ đứng trên văn đàn, Nguyễn Thị Thụy Vũ là một trong những nhà văn sớm có những quan niệm mới. Những trang văn in dấu cuộc đời thực của Thụy Vũ cho thấy nhà văn đã nhận thức sâu sắc về vai trò, giới tính; thể hiện mong muốn thoát khỏi sự bủa vây của cấu trúc quyền lực truyền thống. Thụy Vũ viết như sự trút bỏ những ám ảnh tuổi thơ, viết là “ghi lại cái ám ảnh từ thời nhỏ dại đó của tôi, trong ước vọng, một lần nữa, giải tỏa nó cho xong”5. Theo nhà văn: “Tiểu thuyết là tưởng tượng, ai cũng biết vậy, nhưng có tưởng tượng nào không bắt nguồn từ một phần sự thật”6. Viết để giải tỏa ám ảnh, vì thế, tác phẩm Thụy Vũ ít nhiều có tính chất tự truyện, nhà văn hóa thân, thổi khát vọng vào nhân vật nữ. Quan niệm “vượt thoát” bằng viết văn được Thụy Vũ đặt vào phát ngôn của nhân vật nữ. Những câu hỏi mang ý thức nữ quyền xen lẫn trong những trang văn viết về hiện thực xô bồ ở tỉnh lẻ, nơi người phụ nữ phải thu mình trong những bức tường gia phong: “Tại sao một người con gái muốn sống tự lập, muốn thoát ly khỏi cái không khí nặng nề và cái lề thói cổ hủ của gia đình, thì thiên hạ trút lên đầu bao nhiêu là tội lỗi?” (Nhang tàn thắp khuya). Ý thức rất sớm về quyền được viết của phụ nữ, Nguyễn Thị Thụy Vũ để cho nhân vật lên tiếng - “Thế nào tôi cũng phải đi. Văn đàn rất cần nữ giới đóng góp”. Cô Ba Ngoạn là một kiểu phụ nữ không bằng lòng với đời sống tỉnh lẻ, luôn muốn vươn lên khỏi cái lối sống nhàn nhạt, buồn tẻ đã khiến bao người phụ nữ phải cam phận. Cô làm thơ, viết văn, đăng trên các báo ở Sài Gòn; mở salon littéraire, thay đổi về trang phục, lối sống; và lấy một người Pháp, ông chủ tờ báo Viễn Đông, dẫu họ hàng, cha mẹ “coi như cô đã chết từ lúc lọt lòng” (Nhang tàn thắp khuya). Tịnh mơ ước được viết văn, đọc Colette7, khao khát một cuộc sống thanh cao nhưng cuối cùng đành mòn mỏi, tàn lụi trong bốn bức tường hẹp của gia phong bắt đầu rã nát, hóa điên rồi chết (Khung rêu). Điều đó cho thấy, Nguyễn Thị Thụy Vũ đã ít nhiều chịu ảnh hưởng của văn chương nữ quyền Pháp khi xây dựng những kiểu nhân vật phụ nữ vượt thoát bằng con đường viết văn. Không ảo tưởng, song không “tự ti” về thân phận, cũng không né tránh đề tài kiêng bị, bằng lối viết khách quan, sắc sảo, Nguyễn Thị Thụy Vũ đã sớm khẳng định vị thế của mình, không chỉ trong bộ phận văn chương nữ giới, mà trong cả nền văn học miền Nam 1955 - 1975.
![]() |
Một số sách của nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ |
2. Vượt thoát trên phương diện đề tài
Đánh giá về những đóng góp của các nhà văn nữ miền Nam trong 70 năm đầu thế kỷ XX, Uyên Thao cho rằng: “Đó là những năm mà văn nghệ nữ giới Việt Nam đã đạt tới một số thành tích có đủ tầm vóc ảnh hưởng quyết định cả một trào lưu sinh hoạt”8. Tiếp nhận ý thức nữ quyền từ Simone de Beauvoir, các nhà văn nữ miền Nam Việt Nam có xu hướng đề cao quan niệm tự do luyến ái, chạm vào những đề tài kiêng kị; nổi loạn bằng cách đề cao tính dục, thân xác, vẻ đẹp hình thể của người phụ nữ. Tuy vậy, hầu hết họ đều dựa vào những trải nghiệm cá nhân để nhìn ra thế giới; dùng chính cuộc đời mình làm chất liệu và đối tượng của văn chương. Không thoát ra khỏi các đề tài về tình yêu, hôn nhân; không quan tâm gì hơn ngoài cảm xúc, tâm trạng của nữ giới, những bứt phá của các nhà văn nữ, về cơ bản vẫn không đưa họ vượt khỏi định kiến về một kiểu “đàn bà viết văn”. Nói như Huỳnh Phan Anh, “người đàn bà viết văn có cái thất lợi là họ không làm cách nào cho người đọc quên được họ là đàn bà”9 và “chưa cởi bỏ hết những mặc cảm của một người phụ nữ với tư cách của một người viết văn”10. Nguyễn Nhật Duật cũng cho rằng các nhà văn nữ chỉ quanh quẩn ở những lo toan hạnh phúc, “mối lo toan muôn thuở của người đàn bà, và nó cũng chỉ đi đến đó mà thôi”11. Đây là những nhận xét mang đậm tính nam quyền khi nhìn về phụ nữ, song không phải là không có lý khi các nhà văn nữ vẫn chủ yếu khai thác các đề tài nữ tính và viết văn bằng lối viết “tự ăn mình” (mà Nguyễn Thị Hoàng là một trường hợp tiêu biểu). Trong bối cảnh ấy, lựa chọn những đề tài nóng bỏng, kiêng kị của xã hội; trực diện phản ánh những góc khuất của cuộc sống nữ giới, nhất là những thân phận bên lề, Nguyễn Thị Thụy Vũ đã tự mình xác lập một hướng đi riêng, vượt thoát lối viết vốn mặc định dành cho nữ giới.
Theo Nguyễn Đình Tuyến, Nguyễn Thị Thụy Vũ là người đầu tiên đã can đảm ghi lại những “sự kiện sống thực nhất trong thời đại chúng ta”12. Tác phẩm của Thụy Vũ “tả chân câu chuyện của các nhân vật đến từ nhiều tầng lớp thay vì quẩn quanh với chuyện tình ái lâm ly như đa phần các cây bút nữ khác cùng thời”13. Đặt trong diện mạo văn xuôi nữ miền Nam 1955 - 1975, Nguyễn Thị Thụy Vũ là nhà văn nữ phản ánh chân thật, sinh động nhiều những vấn đề nóng bỏng của xã hội miền Nam đương thời như chiến tranh và số phận phụ nữ, tình yêu, bi kịch hôn nhân; những bán mua, buông thả thân xác. Với bút pháp mạnh mẽ, Nguyễn Thị Thụy Vũ đi thẳng vào vùng đất kiêng kị đối với phụ nữ viết văn đương thời. Vì vậy, bên cạnh những khẳng định, vẫn có nhiều đánh giá không thuận chiều đối với những vấn đề Nguyễn Thị Thụy Vũ lựa chọn phản ánh, đặc biệt là vấn đề thân xác đàn bà, mà theo Uyên Thao, “ở một đối cực là vùng trời tù hãm tỉnh lẻ, thân xác đã bị làm cho tê liệt, và ở đối cực kia, nó đã bị khai thác đến rã rời”14.
Viết về tính dục không còn là điều nhạy cảm, thậm chí quá nhàm. Tuy vậy, trở lại thời điểm tác phẩm của Thụy Vũ ra đời, tính dục vẫn thuộc ngoại biên văn học. Nguyễn Thị Thụy Vũ không ngại miêu tả những cô gái bán bar, làm sở Mỹ cùng cuộc sống phóng túng, tràn trề dục lạc, trong khi không nhiều nhà văn nam, và nhất là nhà văn nữ “dám” đi sâu tìm hiểu cuộc sống của các cô gái làm nghề bướm đêm. Những câu chuyện bán mua thân xác, hoặc bị cưỡng bức, phá thai, lại lao vào tình dục… trở thành phổ biến trong tác phẩm của bà. Ngự, Ngà (Khung rêu), Đức (Thú hoang), Kim Quýt (Trôi sông) v.v, đều có những mối tình bồng bột, chiều theo tiếng gọi của thân xác. Từ một góc nhìn, nhất là góc nhìn của xã hội với những định kiến về đạo đức, giới tính đương thời, khát vọng dục tình và lối sống buông thả thân xác ở nữ giới khiến tác phẩm của Nguyễn Thị Thụy Vũ có phần dữ dội so với văn chương của các nhà văn nữ khác, và đặc biệt phóng túng hơn nhiều so với văn chương nam giới.
Nhìn từ một hướng khác, có thể nói, trong quan niệm của Thụy Vũ, tính dục chính là một cách xả bỏ những dồn nén ẩn ức. Có thể khẳng định, với những người phụ nữ sống trong khung rêu, bạo dạn trong tình dục là hành vi vượt thoát. Ngà vừa bị ép buộc vừa thỏa mãn trong cơn cưỡng bức của ông Phủ với hy vọng vượt thoát khỏi thân phận tôi đòi, nhưng rồi cay đắng nhận ra thân xác không đủ để giúp cô thay đổi cuộc đời. Giữa sơn son thếp vàng đã rệu rã trong nhà ông Phủ, Ngà gần như trở lại cuộc sống tôi đòi, bên cạnh hình hài già nua, vô cảm của ông Phủ sa cơ. Những khát vọng vượt thoát lởn vởn trong tâm trí chỉ để con người tê dại, không thoát được thì buông thả trong nhiều mối tình như Ngự, hoặc ẩn ức điên loạn vì tình yêu như Tình (Khung rêu), Kim (Thú hoang). Thật ra, trong toàn bộ sáng tác của Thụy Vũ ít có những cận cảnh ái ân. Bà không miêu tả ngôn ngữ thân thể trần trụi mà thiên về tâm trạng. Ngòi bút nhà văn đầy thông cảm, thấu hiểu họ, những người phụ nữ mang nỗi buồn tỉnh lẻ và những cô gái bán mua ê chề thân xác.
Thụy Vũ cũng là nhà văn đầu tiên đề cập vấn đề lệch pha, đồng tính với những cảm giác rất thật. Trong tiểu thuyết Khung rêu, nhà văn phân tích hành vi, tâm trạng của Chiêu, nhân vật bán nam bán nữ, khuôn mặt rắn rỏi của đàn ông, nhưng dáng điệu lộ dần nét mềm mại của con gái. Người mẹ đau khổ vì “sự tật nguyền bất hạnh của con”, dư luận cho là quả báo… càng làm tăng thêm là mặc cảm khiếm khuyết của Chiêu. Chiêu yêu Hoàng, sự kề cận với Hoàng trong một khoảnh khắc tình cờ với Chiêu “đã trở thành cả một cơn bão lửa”; anh vừa thương cho “cái thân xác tội nghiệp của mình”, vừa tự thấy mình như “một con quái vật đáng kinh tởm”. Dẫu Thụy Vũ chỉ khai thác tâm trạng, cảm xúc của một phía, nhưng nhà văn đã bênh vực cho quyền sống của những con người dị biệt. Qua nỗi đau của người mẹ, nhà văn thẳng thừng đặt ra câu hỏi “ngày mà Chiêu ý thức được cái thân xác của nó đang đứng chàng ràng giữa hai cánh cửa nam, nữ trong các cầu tiêu của rạp hát, tiệm ăn, nó sẽ chọn cánh cửa nào? Chắc chắn người ta không hề nghĩ đến gian phòng vệ sinh dành cho loại người lưng chừng vì một chút lơ đãng lười biếng của mười hai Mụ Bà”. Có thể nói, từ góc nhìn giới, từ sự táo bạo, dũng cảm của người cầm bút, viết về đề tài thân xác, về các chủ đề “ngoại biên”, về các thân phận nữ giới bên lề… là một cách vượt thoát của Nguyễn Thị Thụy Vũ. Để bà thực hiện trọn vẹn sứ mệnh của một nhà văn, trình hiện cái nhìn của một nhà văn về các câu chuyện đời sống đương thời, vượt thoát kiểu viết của nữ giới hay cái nhìn của nhà văn nữ (vốn đã bao hàm thiên kiến về những giới hạn trong trường nhìn của giới).
3. Vượt thoát bằng những hình tượng nhân vật nữ dấn thân, nổi loạn
Một lần được Du Tử Lê phỏng vấn, Nguyễn Thị Thụy Vũ đã chia sẻ “hình như tôi thường nghiêng nặng về những nhân vật cynique15 hơn là những nhân vật sống hợp lý với cuộc đời”16. Trong truyện của bà, khát vọng tự do, dấn thân, vượt thoát đậm nét ở kiểu nhân vật “vô liêm sỉ” này, không chỉ ở nam giới mà đặc biệt là ở nữ giới.
Con người trong tác phẩm của Thụy Vũ hoặc là những cặn bã xã hội (đĩ điếm, những người đàn bà lấy Mỹ, những cô gái bán bar), hoặc là những kiếp đời phụ nữ chịu nhiều tác động của chiến tranh. Hai vùng không gian địa lí chủ yếu trong truyện Thụy Vũ là những tỉnh lẻ đồng bằng sông Cửu Long buồn tẻ, nhợt nhạt và Sài Gòn - thu hẹp trong những quán bar. Cái ngột ngạt, xô bồ của đời sống dồn lại trong những khoảng không chật hẹp nói lên cuộc đời của những cô gái bị ràng buộc vô lý vào những khung khổ cũ mòn và luôn khao khát vượt thoát; “vượt thoát cái hoàng hôn u tàn của một dòng họ. Vượt thoát cái không gian u trệ của tỉnh lỵ. Vượt thoát những ám ảnh buồn tẻ cô đơn của người con gái sống trong ngôi nhà cổ nghe nhựa sống trong mình khô dần và trái tim của mình lơi nhịp vì mỏi mòn chờ đợi”17.
Vượt thoát nỗi buồn tỉnh lẻ
Là nhà văn của những người phụ nữ bình dân, Nguyễn Thị Thụy Vũ luôn đứng về phía những con người bất hạnh nhưng giàu ước mơ. Dẫu không chủ ý nhưng sắc thái nữ quyền bàng bạc trong thế giới nghệ thuật của Nguyễn Thị Thụy Vũ, qua việc miêu tả, phê phán kiểu “người đàn ông bất toàn” mà phụ nữ là nạn nhân. Không hiếm những mẫu đàn ông bê tha như Canh hoặc nhu nhược, ăn bám như Tường (Khung rêu); những ông Tuần ông Phủ cưỡng bức hầu gái; những người đàn ông là nguyên nhân dẫn đến nạn cưỡng bức, phá thai, những hài nhi vô tội (Thú hoang, Khung rêu)… được Nguyễn Thị Thụy Vũ soi ngắm từ cái nhìn sắc sảo của một người đàn bà có thể nhìn thấu những “xấu xa” của giới kia. Những người phụ nữ mang mặc cảm tội lỗi khi không sinh được con trai (Chiều xuống êm đềm, Khung rêu); những thân phận đàn bà bị trói buộc, hoặc tự nguyện trói buộc trong suy nghĩ cũng như trong hành động…, cũng là đối tượng thấu hiểu, cảm thông của nhà văn qua từng trang viết. Tuy vậy, Nguyễn Thị Thụy Vũ chú ý nhiều hơn đến những người phụ nữ muốn vượt khỏi nỗi buồn tỉnh lẻ, trong ước mơ, suy nghĩ hay trong hành động. Nhiều nhân vật nữ của Thụy Vũ muốn ra đi để thoát khỏi không gian tù đọng, nhạt nhẽo; thoát khỏi những “bức tường bằng bê tông có gắn phía trên những miểng chai”; hay thoát khỏi “Thành phố già nua, trầm lặng với sông rạch vây quanh, in dấu tháng ngày trống rỗng trôi qua” (Nhang tàn thắp khuya). Như Linh trong truyện ngắn Một buổi chiều: “Đêm nào tôi cũng nghe tiếng sông róc rách sau nhà, tiếng tàu xà lan chạy xình xịch. Đêm nào tôi cũng chìm trong những tiếng động đó. Tôi phải ra đi. Ra khỏi cái nhà này, cuộc đời tôi sẽ thay đổi (…). Cuộc đời ở đây đè nặng làm tôi nghẹt thở” (tập truyện Mèo đêm). Như Nguyệt “đi tìm thành phố khác mong thay đổi không khí và đời sống đầy rẫy buồn phiền ở tỉnh lỵ. Nàng phải xa lánh nơi chôn nhau cắt rún như một vòng tay siết chặt nàng từ thời thơ ấu, họa may mới có cơ hội ngoi đầu chường mặt với đời” (Cho trận gió kinh thiên). Như Liễu, “đã từng nuôi dưỡng ý tưởng thoát ly khỏi tỉnh này, để tìm một không khí mới. Tôi sẽ rời bỏ ngôi nhà cổ âm thầm với tiếng cắc kè trên đầu kèo, như lời nguyền rủa tương lai từng đêm (…). Tôi ngại nghe tiếng chim heo hét lên buốt óc vào lúc tảng sáng và tiếng xà lan xình xịch bên kia sông. Tôi muốn chạy trốn bối cảnh nhàm chán đó cùng những âm thanh rã rời buồn nản như cuộc sống tôi hiện tại” (Thú hoang). Nhân vật Liễu mang bóng dáng của nhà văn. Truyện Thú hoang dựng lên một thế giới khác, thế giới học đường. Mọi chuyện nhốn nháo của xã hội thu nhỏ trong một ngôi trường ở tỉnh lẻ; ở đó, thầy cô giáo quan hệ bừa bãi, những mối tình “chân”, những trận đòn ghen tại lớp học; những lần cảnh sát đến trường còng tay học sinh vì liên quan đến việc rải truyền đơn, những chàng trai trẻ bỗng dưng bỏ học, mất hút mơ hồ… Ôm trùm tác phẩm là cảm giác trống rỗng của Liễu, cô chối bỏ môi trường này tìm đến môi trường khác nhưng vẫn là bế tắc và buồn chán. Tâm trạng lạc lõng, buồn chán của Liễu mang tinh thần thời đại, dẫu không đậm đặc như nhiều tác phẩm thuộc khuynh hướng hiện sinh đương thời. Nhân vật nữ của Thụy Vũ thường tìm cách xê dịch từ không gian này sang một không gian khác để thay đổi nhưng lại tiếp tục chôn kín đời mình. Trong những ngày sống trong “khung rêu” nhà ông Phủ, Tịnh giúp Ngự và Tường đến với nhau bất chấp sự ngăn cản của bà Phủ chỉ với mong muốn “giúp cho hai người đạp đổ một màn lưới ngăn chận”. Tịnh yêu Hoàng nhưng cuối cùng cũng bị hút vào những bức tường chật hẹp và khi người yêu đi xa thì Tịnh hóa điên rồi chết. Ngự, bỏ nhà ra đi, ê chề, nhục nhã, rồi lại trở về chốn cũ (Khung rêu). Những người phụ nữ tỉnh lẻ trong truyện Nguyễn Thị Thụy Vũ rất có ý thức vượt thoát, kể cả khi phải đánh cược bằng thân xác và tương lai êm đềm của một người đàn bà bình thường. Song vượt lên bản thân vẫn không đủ giúp họ thoát ra khỏi cái bí bách, trói buộc của xã hội, của thời đại. Ẩn sau cái ngang tàng, bất chấp của văn phong Nguyễn Thị Thụy Vũ vẫn là những tiếng thở dài, những nỗi buồn ảm ảnh và chua xót.
Nổi loạn tính dục và những ê chề xác thân
Trong văn học miền Nam đương thời, chưa ai đưa những gái làm nghề bán thân xác - một mảng khuất của đời sống trở thành trung tâm, chiếm ngự nhiều trang viết như Thụy Vũ. Nhà văn đã phản ánh chân thật, bóc trần cuộc sống cũng như tâm trạng của những người phụ nữ “dưới đáy xã hội” bằng niềm cảm thông đầy tính nhân bản. Ít khai thác cận cảnh những bán mua thân xác, nhà văn thiên về tâm trạng những cô gái dùng thân xác để kiếm sống, những phấp phỏng lo âu, những mặc cảm chợ chiều, bệnh hoa liễu, những nổi loạn phá phách (Lao vào lửa). Trong truyện của Nguyễn Thị Thụy Vũ, khá nhiều những cô gái quán bar, rời bỏ nỗi buồn tỉnh lẻ những mong thay đổi đời mình song lại rơi vào vòng xoáy khác, ngột ngạt hơn. Những cái tên giả Jane, Lina, Jackie… làm thay đổi những cuộc đời nhưng cũng gói gọn những ê chề thân phận. “Thế giới của tôi là quán rượu chìm lờ mờ trong cảnh đèn đỏ, trong khói thuốc như sa mù buổi sáng. Cuộc đời của tôi thu gọn trên chiếc giường…” (Gái độc không trái). “Ngày mai có sao cũng mặc; hơn nữa cần phải tìm cảm giác mạnh. Những chuỗi ngày trác táng cứ đều đặn nối tiếp nhau buồn tẻ. Những cảnh hồi hộp gian nan đó sẽ giúp tôi thu ngắn cuộc sống tẻ ngắt hiện tại.” (Đêm nổi lửa). Những người đàn bà buôn hương bán phấn trong truyện Nguyễn Thị Thụy Vũ luôn muốn nổi loạn, thách thức cuộc đời, số phận, song hầu hết chỉ có thể nổi loạn trên phương diện thân xác. Đó là Tâm, vẫn tươi tắn, hồng hào, không mảy may lo sợ hoặc bứt rứt khi lần thứ tư phá thai, bởi “tội ác ấy đã là thói quen” và “mười năm giang hồ đã đục khoét hết niềm tin của nàng đối với cuộc đời, với đạo đức” (Chiếc giường). Đó là Hằng, ghét cay ghét đắng các bà phước cùng những lời giảng dạy kẻ cả của họ hòng mong cô giã từ đoạn đời tối tăm, nhơ bẩn, không biết rằng “linh hồn cô đã mọc rễ sâu vào các cuộc vui trác táng” (Đêm nổi lửa). Bi kịch của những người phụ nữ sống bằng thân xác ấy là họ vừa chọn lạc thú để trốn chạy cuộc đời tẻ nhạt lại vừa muốn trốn chạy cuộc sống trụy lạc nhơ nhớp ấy. Hơn một lần Thắm trong Những ngọn pháo bông “muốn chạy trốn những vòng tay đầy lông lá quấn lấy thân thể như cái định mệnh ác nghiệt trói buộc thân thể nàng”, “muốn tìm một bãi biển để ngắm màu xanh dịu dàng và đắm mình trong cái yên tĩnh mát rượi”, rồi rốt cuộc lại… hí hửng khi tranh giành được “khách”, hớt phỗng tay trên những “con mồi” của đồng nghiệp. Hầu hết họ đều rơi vào bi kịch không lối thoát và tàn rữa trong một tương lai vô vọng.
*
Ở miền Nam những năm 60 - 70 của thế kỉ XX, độc giả và cả giới nghiên cứu, phê bình vẫn chủ yếu nhìn văn chương thân xác bằng cái nhìn e dè, nghi kị. Quan niệm xem văn chương tính dục, đặc biệt tính dục nữ, là ngoại biên vẫn khá phổ biến. Trong bối cảnh ấy, sự xuất hiện của Nguyễn Thị Thụy Vũ với các tác phẩm bạo liệt không hẳn ngay lập tức đã được đón nhận thuận chiều. Song, chính nhờ bà mà các nhà văn nữ “đã giành lại cái ưu quyền về Nghĩ, Cảm và Sống như nhà văn nam”18. Nói như Mai Thảo, “Sự phá vỡ và làm nổ tung những ràng buộc cũ của họ để đạt đến cái biên giới mới này, chính là văn chương”19. Cùng với các nhà văn nữ tiêu biểu đương thời như Nguyễn Thị Hoàng, Nhã Ca, Túy Hồng, Trùng Dương, những vượt thoát của Nguyễn Thị Thụy Vũ đã khiến “người ta không còn thấy dáng dấp e dè của người nữ trong sinh hoạt văn nghệ nữa, cái dáng dấp thường tạo một thành kiến là nữ giới không thể chiếm một chỗ ngồi chính thức trong văn nghệ”20. Và cũng bởi “viết như một hành động vượt thoát”, tác phẩm của Nguyễn Thị Thụy Vũ đã vượt qua gần nửa thế kỉ để tiếp tục xác lập chỗ đứng trong những đón nhận mới của độc giả đầu thế kỉ XXI. Nguyễn Thị Thụy Vũ đi xa hơn nhiều nhà văn cùng thời có lẽ chính nhờ những “vượt thoát” rất đáng trân trọng trong quan niệm sáng tạo và trong lối viết không hề thường tình nhi nữ.
T.P.V.A
(TCSH397/03-2022)
____________________
1 Tạ Tỵ (1971), Mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay, Nxb. Lá Bối, Sài Gòn, tr.155.
2 Lê Văn Nghĩa (2020), Văn học Sài Gòn 1954 - 1975, những chuyện bên lề, Nxb. Tổng hợp, Tp. Hồ Chí Minh, tr.450.
3 , 4 Nhiều tác giả (1972), “Nói chuyện về các nhà văn nữ”, Văn, 206, tr.2, tr.16.
5 Lời mở đầu tiểu thuyết Khung rêu.
6 Lời mở đầu tiểu thuyết Khung rêu.
7 Colette - nữ tiểu thuyết gia người Pháp (28/1/1873 - 3/8/1954), đại diện cho phụ nữ Pháp hiện đại, có cuộc đời đầy biến động, ba lần kết hôn, có quan hệ đồng tính và viết nhiều về tình dục.
8 Uyên Thao (1973), Các nhà văn Nữ Việt Nam 1900 - 1970. Nxb. Nhân chủ, Sài gòn, tr.19.
9 , 10, 11 Nhiều tác giả (1972), tlđd, tr. 7, tr.8, tr.3.
12 Nguyễn Đình Tuyến (1969), Nhà văn hôm nay, Nxb. Sài Gòn, tr. 42.
13 Du Tử Lê (2010), Sự khác biệt về tính dục trong truyện Nguyễn Thị Thụy Vũ và các nhà văn nữ khác, https://dutule.com/a2865/su-khac-biet-ve-tinh-duc.
14 Uyên Thao, tlđd, tr.207.
15 Xem Nguyễn Thị Thanh Xuân, Nguyễn Thị Thụy Vũ đã trở lại, Quán Văn, tháng 5 năm 2019. Tác giả bài báo giải thích cynique có nghĩa là vô liêm sỉ, nhưng ở đây đã vượt ra ngoài ý nghĩa hẹp hòi, thông tục mà là khát vọng muốn đạt đến tự do, vượt qua những hệ lụy, những thứ bậc, những cấm kị sáo mòn, giả dối.
16 Du Tử Lê, tlđd.
17 Nguyễn Thị Thanh Xuân (2019), Gửi đây chút duyên tình đọc, Nxb. Đà Nẵng, tr. 172.
18 , 20 Nhiều tác giả, tlđd, tr.6, tr.2.
19 Uyên Thao, tlđd, tr.28.
YURI BONDAREVTên tuổi của nhà văn Nga Yuri Bônđarép rất gần gũi với bạn đọc Việt Nam qua những tác phẩm nỗi tiếng của ông đã được dịch ở ta vào thập kỷ 80 như: "Các tiểu đoàn xin chi viện", "Tuyết bỏng", "Bến bờ", "Lựa chọn", "Trò chơi"... Là một trong những nhà văn Xô Viết hàng đầu miêu tả hùng hồn và chân thực chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân và dân Liên Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc thần thánh chống phát xít Đức 1941- 1945, Bônđarép đã được phong Anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa, được tặng giải thưởng Lênin, các giải thưởng Quốc gia, giải thưởng Lép Tônxtôi và M.Sôlôkhốp, giải thưởng toàn Nga "Xtalingrát"...
TRẦN ĐÌNH SỬVăn học Trung Quốc trong cơ chế thị trường đã có những biến đổi khá lớn. Theo các tác giả của sách Văn học Trung Quốc thế kỷ XX xuất bản tại Quảng Châu năm 1988 có thể nắm được một đôi nét diện mạo, chứng tỏ văn học Trung Quốc không còn có thể tồn tại theo phương thức cũ. Cơ chế thị trường đã làm cho nhà văn và nhà phê bình phải suy tính lại về sách lược sinh tồn và phương hướng phát triển nghề nghiệp.
ĐOÀN TUẤNThạch Lam qua đời cách đây đã hơn nửa thế kỉ. Ông để lại cho chúng ta một khối lượng tác phẩm không lớn nhưng chúng đã trở thành một mẫu số vĩnh hằng trong văn học Việt Nam. Tiếc rằng chúng ta đã không thể lưu giữ một bức chân dung nào của Thạch Lam. Thậm chí mộ ông được chôn cất nơi nào, cũng không ai biết.
NHẬT CHUNG (Đọc bài thơ XÓM LỤT của anh Phạm Xuân Phụng)Anh Phụng là bác sĩ ở Bệnh viện Trung ương Huế. Tôi tìm hết trong tuyển tập HAI THẬP KỶ THƠ HUẾ, chỉ duy nhất bài thơ này viết về cảnh lụt lội hàng năm vẫn xảy ra ở mảnh đất nghèo khó. Trong những ngày đau buồn, khi nước vừa rút, trắng bợt trước mắt tôi những bài thơ tình èo uột nỉ non ẻo lả, và đứng dậy trước mắt tôi một bài thơ XÓM LỤT.
PHONG LÊBến không chồng - Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991 đưa nhanh Dương Hướng lên một vị trí cao trong thành tựu văn học Đổi mới. Không thuộc đội ngũ “tiền trạm” xuất hiện từ đầu những năm 80 như Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Mạnh Tuấn (sinh năm 1948) - người cùng thế hệ với anh (sinh 1949), đến tuổi 40 mới bắt đầu trình làng với tập truyện ngắn Gót son (1989), thế mà chỉ 2 năm sau, Dương Hướng bỗng trở thành một “tên tuổi” với Bến không chồng, góp mặt cùng Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh làm nên một bộ ba sáng giá trong văn học mở đầu thập niên 90, năm năm sau khởi động của công cuộc Đổi mới.
HÀ QUANG MINHLTS: Liệu có phải văn hóa chỉ đơn thuần là văn hóa hay nói cách khác là chỉ chứa đựng các yếu tố văn hóa không? Câu trả lời chắc chắn là không. Văn hóa mang cả trong nó tính chính trị và kinh tế. Trong khuôn khổ bài viết này, chỉ nhắc tới tính kinh tế trong văn hóa mà thôi nhưng hy vọng nó sẽ đóng góp nhiều cho công cuộc xây dựng một xã hội văn minh hơn, công bằng hơn.
ĐỖ LAI THÚYVề Kinh Bắc với những hội hè, chùa chiền, với đồng chiều cuống rạ, dây bìm bìm, bí lông tơ, giun đất, con gà trụi, châu chấu.. làm người đọc nhớ đến dòng thơ viết về nông thôn, nhất là thơ Nguyễn Bính. “ Trong các nhà thơ cùng thời viết về nông thôn như Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ... có lẽ chỉ có Nguyễn Bính là nhận thức sâu sắc được sự thay đổi của thôn quê trước “ cuộc xâm lăng” của đô thị.
TRẦN VĂN TOÀN - NGUYỄN XUÂN DIÊN1. Ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới là một vấn đề từ lâu đã được đề cập tới. Ngay từ năm 1942, Hoài Thanh- Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam mặc dù giành nhiều trang để miêu tả ảnh hưởng của thơ Pháp (đặc biệt là trường phái Tượng trưng) nhưng các ông đã trân trọng và có một chút hứng thú đặc biệt về ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới (điều này được bộc lộ qua công phu miêu tả, khảo cứu và cụ thể hơn từ chính số lượng trang viết). Khi phân chia các dòng mạch Thơ Mới, Hoài Thanh- Hoài Chân nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng của thơ Pháp, dòng mạch mang tính cách Việt, đồng thời cũng nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng từ Đường thi.
HOÀNG NGỌC HIẾN…Trong thời kỳ đổi mới xuất hiện nhiều tác phẩm cảm hứng phê phán rất mạnh. Có những quan điểm và giọng điệu phê phán rất khác nhau: xót xa và lo thương, căm uất và hằn học, tỉnh táo và điềm đạm... Cảm hứng phê phán mang tinh thần hài hước khoan hòa sẽ tạo một vị trí đặc biệt cho Nguyễn Việt Hà trong văn xuôi Việt Nam đương đại…
ALEXANDER GENISTrên thị trường Mỹ đã xuất hiện những cuốn sách điện tử đầu tiên. “Softbook” - một đĩa điện tử có màn hình bọc da. Sức chứa - 100 000 trang, trọng lượng - 15 kg, giá cả - 300 đôla cộng 10 đôla kết nối mỗi tháng. “Paketbook” giá 500 đôla, nhưng đi kèm với nó phải có máy tính cá nhân. “Dedicate Reader” - một sổ tay điện tử. Nó giống như một cuốn sách thực sự, có một màn hình kép chứa các bản vẽ, bản đồ, sơ đồ, bảng biểu. Giá là 1500 đôla. Như kinh nghiệm cho thấy, không ai thích đọc văn bản theo màn hình, vì thế tại viện nghiên cứu “Media-lab” người ta đang tìm cách chế tạo thứ “mực điện tử” - những cái bao hết sức nhỏ có thể tùy theo cường độ và hướng của dòng điện sắp xếp lại với nhau để tạo thành văn bản. Theo cách đó, gần như loại sách bằng giấy thông thường có thể được in lại - thay một nội dung này bằng một nội dung khác. Tờ “New York Times” viết: “Ngay giờ đây đã thấy rõ sách điện tử là điều tất yếu. Nếu như không phải là sự thay thế sách in, thì cũng là sự luân phiên nó”. (Theo báo chí)
TRẦN ANH PHƯƠNGCầm trên tay tập thơ "Người hái phù dung" của Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi như đọc với chính mình giữa đêm khuya lặng lẽ bên ngọn đèn. Cảm nhận đầu tiên về thơ anh không phải thơ để đọc giữa chốn đông người hay ở trong hội trường lớn, thơ anh chỉ đến với người đọc khi chỉ còn lại một mình đối diện với chính mình, tìm lại mình trong những con chữ lan toả như từng đợt sóng, xâm chiếm choáng ngợp lòng người...
TRẦN THIỆN KHANH Inrasara nhập cuộc văn chương từ rất sớm. Ngòi bút của Inrasara chạm được vào những vấn đề cốt tử của nghệ thuật. Inrasara đã sống thực sự với đời sống văn chương đương thời.
HUYỀN SÂM - NGỌC ANH 1. Umberto Eco - nhà ký hiệu học nổi tiếng.Umberto Eco chiếm một vị trí rất đặc biệt trong nền lý luận đương đại của Châu Âu. Ông là một triết - mỹ gia hàn lâm, một nhà ký hiệu học uyên bác, một tiểu thuyết gia nổi tiếng và là giáo sư danh dự của trường Đại học Bologne ở Italia. Tư tưởng học thuật của ông đã tác động mạnh mẽ, tích cực đến đời sống trí tuệ của sinh viên và giới nghiên cứu trong suốt nửa thế kỷ qua. Ông có mặt trong danh sách của hai mươi nhà tư tưởng đương đại lớn nhất thế giới, và cũng là ứng cử viên thường trực của Viện Hàn lâm Thụy điển về việc bình chọn giải Nobel văn học.
ĐỖ NGUYỄN VIỆT TƯ (Nhân đọc thơ Hoàng Vũ Thuật)Trong con người cũng như trong vũ trụ luôn luôn hiện diện một mâu thuẫn bất biến, nhờ cái khối mâu thuẫn này mà nó tồn tại, phát triển và trở nên thống nhất. Con người luôn đi tìm chính mình trong một cuộc phiêu lưu vô định, không bao giờ bằng lòng với những cái đã có, bản ngã lúc nào cũng thôi thúc sáng tạo để tìm ra cái mới. Nhà thơ luôn đồng hành với cuộc phiêu lưu của những con chữ để đi đến những miền đất lạ, những vùng cảm xúc.
NGUYỄN KHOA BỘI LANSau mấy tháng mưa tầm tã và lạnh thấu xương, qua đầu tháng chạp âm lịch, toàn khu Hạ Lào bắt đầu tạnh. Mặt trời lại hiện ra đem ánh sáng sưởi ấm những khu rừng bạt ngàn từ Trường Sơn lượn xuống. Ở các suối nước không còn chảy như thác đổ, ở Xê Công dòng nước cũng đã trở lại hiền hòa. Các con đường lớn, đường nhỏ bắt đầu khô ráo.
TRẦN ĐƯƠNGTôi được làm quen và có quan hệ cởi mở với nhà thơ Tố Hữu từ mùa thu năm 1973, sau khi ông dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng ta đi dự Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Đức (DKP) họp tại thành phố cảng Hăm-bugr). Từ miền Tây, ông sang Béc-lin, Cộng hòa Dân chủ Đức, theo lời mời của Bộ chính trị Đảng xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức (SED) với mục đích thăm, nghiên cứu và trao đổi về công tác tư tưởng giữa hai Đảng.
TRẦN THÁI HỌCĐến nay, vấn đề giá trị nghệ thuật không còn là vấn đề thời sự được nhiều người trong giới phê bình quan tâm bàn cãi. Sự lắng lại trong không khí phê bình về vấn đề này, vốn đã trải qua một thời kì tranh luận sôi nổi kéo dài hàng chục năm trên văn đàn gắn liền với những quan điểm triết học và mỹ học khác nhau, thậm chí đối lập nhau.
HÀ VĂN THỊNH Trên trái đất này, có lẽ chỉ có các nhà thơ mới quan niệm cuộc đời là một trò chơi. Ngay cả Thánh Kinh, khi bàn về lẽ khởi - tận của kiếp người cũng phải than: thân cát bụi trở về cát bụi. Lời nguyền đó là tiếng kêu bi thương từ sâu thẳm của hàng triệu năm đau đớn để sống và, để chết. Từ ngày đầu tiên sinh ra loài người, Adams đã phải dắt díu Éva trốn chạy khỏi Thiên Đường trong nước mắt và uất hận; đau đớn và tuyệt vọng; cô đơn và sỉ nhục... Đó là những điều ngăn cản việc biến cuộc đời thành một trò chơi.
NGUYỄN THAM THIỆN KẾ... Đức Phật, nàng Savitri và tôi sẽ là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của Hồ Anh Thái, đồng thời nó sẽ giữ ngôi vị lâu dài là tiểu thuyết duy nhất trong văn học Việt lấy cuộc đời giáo chủ Phật giáo làm nguồn cảm hứng. Và sẽ còn lâu lắm văn chương Việt mới có một nhà văn đủ tự tin cũng như tài năng để động vào bàn phím viết về đề tài này. Nó cũng sẽ là thời gian cộng trừ 20 năm, nếu như nhà văn nào đó bây giờ mới bắt đầu tìm hiểu văn hóa Ấn...
HOÀNG NGỌC HIẾNNhan đề của tập thơ khiến ta nghĩ Trần Tuấn đặc biệt quan tâm đến những ngón tu từ, mỹ từ của thi ca, thực ra cảm hứng và suy tưởng của tác giả tập trung vào những vấn đề tư tưởng của sự sáng tạo tinh thần: đường đi của những người làm nghệ thuật, cách đi của họ và cả những “dấu chân” họ để lại trên đường.