Nguyễn Thị Minh Thái và phê bình nghệ thuật

09:26 26/11/2018

Đối thoại với hoa (NXB Văn hóa - Văn nghệ TPHCM, tháng 11-2018), tập tiểu luận phê bình thứ 7 của Nguyễn Thị Minh Thái, là cuốn sách kỷ niệm 45 năm bước vào nghề văn của tác giả.

Đây cũng là cuốn thứ 3 trong bộ 3 tác phẩm cùng chủ đề, mà 2 cuốn trước là Đánh đường tìm hoa (2010) và Mặt người mặt hoa (2012) đều do NXB Văn hóa - Văn nghệ TPHCM ấn hành.

Không ngại ngần đưa ra những phản biện

Thật khó xác định một thể loại nhất quán trong những cuốn sách gần đây của Nguyễn Thị Minh Thái: có tiểu luận phê bình, phỏng vấn, trao đổi, có ký sự nhân vật, chân dung và cả hồi ức. Trong đó, đối thoại là cái mạch vừa hiển lộ vừa ẩn tàng, làm sợi dây nối kết những trang văn: đối thoại giữa tác giả và nhà báo, giữa chủ thể sáng tạo và chủ thể tiếp nhận, giữa người sáng tác và nhà phê bình, đồng thời là tự đối thoại ngay bên trong tâm thức của người cầm bút. 

Khi ra trường với tấm bằng cử nhân văn chương do Trường Đại học Tổng hợp đào tạo, cùng với lứa sinh viên tốt nghiệp năm miền Bắc vừa ngưng tiếng bom Mỹ và chớm thấy dấu hiệu hòa bình, mang theo hành trang là những bài thơ và tiểu luận công bố trong học đường, Nguyễn Thị Minh Thái có 4 năm thử nghề biên tập (ở NXB Văn học) và giảng dạy (ở Khoa Viết văn - Viết báo thuộc Đại học Văn hóa Hà Nội) trước khi là thành viên của Tạp chí Sân khấu (năm 1977). Văn học - báo chí - sân khấu là cái trục mà cuộc đời và nghề nghiệp của bà xoay quanh và để lại dấu ấn sâu đậm trong những trang viết.

Nếu những nhà đạo diễn đàn anh học tập lý thuyết sân khấu phương Tây để vận dụng vào việc xây dựng kịch nghệ ở Việt Nam, thì người làm phê bình cũng có thể tiếp thu lý thuyết văn nghệ nước ngoài vào việc phân tích, đánh giá những hiện tượng sân khấu trong nước. Xét cho cùng, trừ những tài năng kiệt xuất có tầm nhân loại, người làm văn nghệ thời nào cũng là làm với dân tộc mình và cho dân tộc mình là chính. Trong lĩnh vực nghệ thuật, đời sống văn hóa của dân tộc là đất đai màu mỡ cho sự ra đời và phát triển của các loại hình độc đáo: rối nước, chèo, tuồng, cải lương… 

Nguyễn Thị Minh Thái không ngần ngại dấn bước vào những lĩnh vực đó, không chỉ để hiểu sự tương tác với kịch nói hiện đại mà còn để thỏa lòng đam mê nghệ thuật của mình và để hiểu sâu sắc hơn tâm hồn dân tộc. Bà cũng không bàng quan với những hiện tượng mới trong điện ảnh, hội họa, âm nhạc, múa… để làm tròn tư cách của một người mê mải dõi theo đời sống nghệ thuật đương đại của đất nước.

Cọ xát với dòng đời cuộn chảy, ngòi bút Nguyễn Thị Minh Thái không ngần ngại đưa ra những phản biện, chỉ trích về những vở hài kịch tầm thường, những chương trình truyền hình thực tế sao chép dễ dãi, những thảm họa truyền thông online, những biểu hiện của tình trạng sa sút trong đời sống văn hóa ở đô thị - điều mà bà gọi là “sự đảo lộn về chuẩn thẩm mỹ”. Những người trong cuộc thoạt đầu có thể khó chịu và cảm thấy phật ý với cách viết, cách nói có phần gay gắt, thậm chí hơi gây hấn của bà, nhưng rồi cũng chấp nhận những ý kiến ấy vì 2 lẽ: bà chỉ nói lên sự thực một cách thành tâm mà không hề “phủ nhận sạch trơn”; và bà cũng chưa hề truy đến cùng nguồn cơn của thực trạng chính là sự phản ứng lại một “chuẩn thẩm mỹ độc tôn” được du nhập trái với thẩm mỹ ôn nhu và hiếu hòa của dân tộc.

Kiên trì đồng hành với đời sống văn hóa nghệ thuật

Đọc lại những bài viết của Nguyễn Thị Minh Thái được tập hợp trong những cuốn sách dày dặn, có thể nói rằng, trong 4 thập niên gần đây, ở nước ta, hiếm có nhà phê bình nào đồng hành với đời sống văn hóa nghệ thuật một cách kiên trì và nhiệt tâm như thế. Nói riêng trên lĩnh vực sân khấu, ít có cây bút nào viết được nhiều và kỹ lưỡng như bà. Bà viết về công trình của những đạo diễn nổi tiếng, lẫn thử nghiệm nghệ thuật của những nghệ sĩ trẻ đầy triển vọng; về sáng tác của một vài quan chức văn nghệ, lẫn những bài thơ và trang văn lóe sáng của những tài năng mới định hình. Vượt qua đôi chỗ thù tạc, xuê xoa và văn phong báo chí, những bài viết của Nguyễn Thị Minh Thái về cả kịch bản lẫn vở diễn Quẫn, Rừng trúc, Hồn Trương Ba - da hàng thịt… có sức thuyết phục đối với công chúng. Phê bình như vậy không phải là thứ tầm gửi hay vật trang điểm, mà là tiếng nói nối dài ý nghĩa và sức sống của nghệ thuật trên nền tảng của văn hóa. Trong những năm dạy học ở Khoa Báo chí - Truyền thông, bà có điều kiện đúc kết thành quả lao động bền bỉ đó trong cuốn sách bổ ích cho việc đào tạo ở nhà trường: Phê bình văn học nghệ thuật trên báo chí (NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005). 

Là nhà giáo, nhà báo, nhà phê bình, đồng thời là nhà thơ, nhà văn, Nguyễn Thị Minh Thái biết cách thay đổi điểm nhìn trong trang viết của mình khi cần thiết. Có lúc bà nhìn trực diện vào sân khấu để nắm bắt toàn cảnh; có lúc bà ở hậu trường để nhìn thấy bếp núc của lao động nghệ thuật; lại có lúc bà đứng bên cạnh nhà văn, đạo diễn, nghệ sĩ, nghệ nhân để ghi nhận và sẻ chia tâm tình của họ. Thử đọc một đoạn viết về đám tang của NSND Lê Dung: “Không gian lễ tang ngập tràn tiếng hát của Lê Dung, trong những ca khúc đưa tiễn chính mình; người đàn bà hát cô đơn, khi nằm xuống đầu năm 2001, đã không thấy một người tình nào có mặt trong tang lễ mình, trọn vẹn từ đầu đến cuối”. 

Không hẹn mà gặp, giáo sư Tất Thắng, nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Hải và nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên, khi viết lời tựa cho những cuốn sách trước đây của Nguyễn Thị Minh Thái đều nhận ra rằng tác giả, trong khi tái hiện chân dung tinh thần của các đồng nghiệp cũng đồng thời tự biểu hiện chân dung của chính mình. Đó là hình ảnh cô bé ngày sơ tán ở Thái Nguyên, nhớ bố mà chỉ được nghe giọng hát của bố qua chiếc loa truyền thanh thị xã. Đó là hình ảnh người nữ nghiên cứu sinh “nếm trải mùi vị xa xứ, khi những hàng cây nước Nga vào mùa trút lá, lá phong vàng rụng đầy như tấm thảm màu tươi vàng xao xác dưới chân. Mùa đông Nga. Chấp chới bay những bông tuyết xiên chéo ngàn ngạt muốt trắng ngoài cửa sổ. Tôi băng ngang vườn cây đã trút chẳng còn một chiếc lá trên cành… Dấu giày tôi in đậm trên tuyết trắng phau. Trên không trắng xám trời mây, vẫn không ngừng rơi những bông tuyết lạnh trên đôi má nóng bừng”. Hình như tác giả “khuyến mãi” cho ta những đoạn văn trữ tình đó để bù lại những lúc căng thẳng vì đối thoại biến thành tranh luận.

Đã gần hết 2 thập niên đầu của thế kỷ 21; trước bao nhiêu xáo trộn và phân rã giữa cảnh đời và trong lòng người, người đàn bà cầm bút đa đoan Nguyễn Thị Minh Thái chắc không dễ ung dung thưởng trà và mộng dưới hoa cho đến hết mùa sen, như thơ bà đã viết: Đầm sen vắng hoe/ hè qua/ để lại thẫm xanh/ tầng tầng lá già/ và để lại/ nỗi buồn còn già hơn lá/ nở muộn phiền trong lác đác hoa…

Theo Huỳnh Như Phương - SGGP

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Giải thưởng văn học Sông Mekong lần thứ 11 sẽ diễn ra tại thủ đô Phnompenh, Campuchia vào cuối năm 2020. Hai tác giả Việt Nam đoạt Giải thưởng năm nay là tác giả Trần Nhuận Minh với tác phẩm sách thơ Qua sóng Trường Giang và tác giả Trần Ngọc Phú với tác phẩm Từ Biên giới Tây Nam đến đất Chùa Tháp.

  • Trong dịp kỷ niệm 100 năm Ngày sinh nhà thơ Tố Hữu (4-10-1920 - 4-10-2020), NXB Hội Nhà văn cho ra mắt bạn đọc tập sách dày dặn, công phu và nghĩa tình Tố Hữu - Một đường thơ, một đường đời.

  • Nhà thơ Vũ Quần Phương cho rằng, người cuối cùng của phong trào Thơ mới vừa từ giã bạn đọc ở tuổi 100 – thi sĩ Nguyễn Xuân Sanh - là người “không để thơ… ngủ quên trên thành công của dòng lãng mạn trước đó”.

  • Đoàn Ngọc Thu nói rằng chị thích thơ của mình ngày xưa hơn. Những xúc cảm ấy vẫn như còn váng vất trong những vần thơ trong tập “Sau bão” (NXB Hội Nhà văn, 2020).

  • Ra đời cách đây 25 năm, bộ truyện “Kính Vạn Hoa” của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh có ý nghĩa đặc biệt, khơi luồng gió mới cho văn học thiếu nhi Việt Nam thời kỳ đổi mới, mang đến món ăn tinh thần lý thú bổ ích. Tuy nhiên, quá trình thực hiện bộ sách cũng thử thách những người chọn lựa bước trên con đường dài sáng tạo không ngừng nghỉ.

  • Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh sinh năm 1920 tại Ðà Lạt, nguyên quán Quảng Bình, lúc nhỏ theo học ở Trường Quốc học Quy Nhơn (cũ), sau đó chuyển ra Hà Nội.

  • Sáng 22/11/2020, Nhà thơ Trần Đăng Khoa đã thông báo chia sẻ tin buồn cho các nhà thơ và những người yêu thơ đó là nhà thơ tiền bối nổi tiếng Nguyễn Xuân Sanh vừa qua đời.

  • NXB Văn học giới thiệu “Nghề vương bụi phấn”, tác phẩm thứ ba của tác giả Nguyễn Huy Du, gồm những câu chuyện về tình thầy trò với văn phong mộc mạc, giản dị nhưng lôi cuốn, nhân Ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11.

  • Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh sinh ngày 16 tháng 11 năm 1920, quê gốc thuộc huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Ông cũng là một trong những hội viên tiền phong tham gia xây dựng Hội Nhà văn Việt Nam. Năm nay ông tròn 100 tuổi. Hội Nhà văn Việt Nam vừa tổ chức chúc thọ nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh tại trụ sở số 9, Nguyễn Đình Chiểu hôm 9/11/2020 với sự tham gia của lãnh đạo Hội, các nhà văn nhà thơ và đại diện gia đình của ông.

  • “Nẻo vào văn xuôi đương đại Việt Nam” là tập tiểu luận - phê bình của TS Bùi Như Hải, do NXB Văn học ấn hành tháng 9-2020.

  • Sáng 5-11, Viện Văn học Việt Nam đã tổ chức toạ đàm nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh PGS – nhà nghiên cứu văn học Vũ Đức Phúc. Đây là một dịp để các thế hệ Viện Văn học ngồi lại cùng ôn cố và “soi chiếu cho tương lai” – như lời PGS,TS Nguyễn Đăng Điệp, Viện trưởng Viện Văn học nhận định.

  • Bằng sự lao động miệt mài và nghiêm túc, nhà văn Lê Văn Nghĩa thường gửi đến độc giả những đầu sách độc đáo, nhiều cuốn trong số đó có giá trị như một “bảo tàng ký ức” của không chỉ riêng tác giả.

  • Thạch Lam (1910 - 1942) là đại biểu xuất sắc của văn xuôi lãng mạn Việt Nam thời kì 1930 - 1945. Văn Thạch Lam đọng nhiều suy nghiệm, nó là cái kết tinh của một tâm hồn nhạy cảm và từng trải về sự đời (Nguyễn Tuân).

  • Sáng ngày 20/10/2020, Hội Nhà văn Việt Nam đã tổ chức kỉ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ Tố Hữu (4/10/1920 – 4/10/2020).

  • Đã có nhiều nhà văn viết về Hà Nội - Thủ đô yêu dấu - như Thạch Lam, Vũ Bằng, Tô Hoài, Nguyễn Khải… Nhưng tập truyện ký “Hà Nội và tôi” (NXB Hội Nhà văn) gần 300 trang với hơn 20 tác phẩm của nhà văn Vũ Ngọc Tiến, một người Hà Nội gốc, đã cho ta biết thêm một phần chân dung về những con người của đất Tràng An thanh lịch.

  • Tháng 10, nhân kỷ niệm 66 năm ngày Giải phóng Thủ đô, Nhã Nam giới thiệu tới bạn đọc một tác phẩm mới của nhà văn Nguyễn Trương Quý, cây viết vốn quen thuộc với những tản văn về các góc nhỏ của Hà Nội: “”Hà Nội bảo thế là thường”.

  • Rất lâu rồi, không có luận văn, luận án nào về thơ Tố Hữu. Cũng lâu lắm rồi, sau Hà Minh Đức, Trần Đình Sử… rất ít người viết về thơ ông. Tôi cũng chưa bao giờ viết về thơ Tố Hữu khi ông còn sống. Nhưng với chúng tôi, thơ Tố Hữu là nguồn suối tươi mát, mạch ngầm sống động trong đời sống tinh thần. "Chúng tôi" ở đây là thế hệ những người ở lứa tuổi 70. Trong quãng thời gian 70 năm của một đời người thì ít nhất có 30 năm (1954 - 1975) chúng tôi đã được sống với thơ Tố Hữu.

  • Bằng kiến thức của một chuyên gia đầu ngành và sự trân trọng quá khứ một đi không trở lại, ông đã chỉ ra giá trị của cuốn sách và ý nghĩa của việc làm sống lại những kí ức Hà Nội rất đặc biệt thông qua cuốn sách này...

  • Có một bộ phim tôi không thực nhớ nội dung, một bộ phim của Woody Allen mang tên "Đóa hồng tím ở Cairo", câu chuyện mang máng mà tôi còn nhớ, đó là một người phụ nữ thất bại trong tất cả mọi khía cạnh cuộc đời, rồi cô vào một rạp chiếu bóng, xem một bộ phim, và trong giây phút ấy, cô quên béng mất cuộc đời mình, cô òa khóc, không phải vì mình, mà vì những nhân vật trong phim.

  • Năm 1941, với việc xuất bản Dế mèn phiêu lưu ký ở tuổi 20 (bản in đầu tiên có nhan đề Con dế mèn), Tô Hoài có được hai vinh dự lớn trong nghề cầm bút: Trở thành người mở đầu thể loại truyện đồng thoại; Tác phẩm mở đầu lại là đỉnh cao của thể loại, đồng thời là một trong những áng văn học thiếu nhi nổi tiếng thế giới nhất của Việt Nam.