Nguyễn Tất Thành với Huế và phong trào chống thuế năm 1908

16:09 11/09/2008
HÀ VĂN THỊNH Trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quãng thời gian ở Huế không phải là ngắn. Lần thứ nhất, từ mùa hè 1895 đến tháng 5 - 1901 và lần thứ hai, từ tháng 5 - 1906 đến tháng 5 - 1909. Tổng cộng, Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành (NTT - tên được đặt vào năm 1901) đã sống ở Huế 9 năm, tức là hơn 1/9 thời gian sống ở trên đời. Điều đặc biệt là, bước ngoặt quyết định của NTT đã diễn ra ở Huế; trong đó, việc tham gia vào phong trào chống thuế có ý nghĩa quan trọng nhất.

1.
Kỷ niệm của lần đầu ở Huế với Nguyễn Sinh Cung là một kỷ niệm buồn. Vào tháng 8 - 1900, ông Nguyễn Sinh Sắc được bổ nhiệm làm giám thị kỳ thi hương ở Thanh Hóa. Sau đó, ông về Kim Liên để xây mộ cho cha mẹ. Chính vào thời điểm đó, bà Hoàng Thị Loan sinh đứa con thứ tư - Nguyễn Sinh Xin. Do thể trạng yếu và cuộc sống quá khó khăn, bà Loan đã mất vào ngày 10-2-1901. Nguyễn Sinh Cung đã phải vừa khóc vừa chạy từ nhà này sang nhà khác để xin sữa cho Xin.
Chưa đầy 11 tuổi, mẹ mất, nuôi đứa em ốm yếu, bé bỏng (Nguyễn Sinh Khiêm theo cha ra Thanh Hóa), có lẽ là một  cơn sốc rất nặng đối với Nguyễn Sinh Cung. Theo rất nhiều tài liệu mà chúng tôi có được, sau sự kiện này, vẻ vui tươi hàng ngày của Cung đã bị thay thế bởi sự trầm tư. Ngay sau đó, Nguyễn Sinh Sắc đã tức tốc đưa Cung ra lại Nghệ An và với lý do để tang vợ, mãi 5 năm sau mới trở lại Huế.
2.
Cơ hội để NTT ra đi tìm đường cứu nước có từ rất sớm, vào mùa hè năm 1905, khi Phan Bội Châu tìm về Kim Liên để thuyết phục Nguyễn Sinh Sắc cho NTT theo mình. NTT đã hỏi Cụ Phan rằng vì sao Nhật Bản nhanh chóng trở thành cường quốc thì được trả lời là do người Nhật biết cách học hỏi phương Tây. Câu trả lời đó cũng là câu trả lời của chính anh: Tại sao không trực tiếp học hỏi phương Tây mà lại phải “đi vòng” sang Nhật để học? Sự nhạy cảm mẫn tiệp là nguyên nhân để NTT ngay sau đó đề nghị với cha mình được học tiếng Pháp. Theo NTT, điều mà Nguyễn Trãi đã nói từ thế kỷ XV là hoàn toàn chính xác: Muốn chiến thắng kẻ thù, trước hết cần phải hiểu đủ và đúng về kẻ thù đó.
Động cơ học là rõ ràng, cộng thêm trí tuệ sắc sảo, sự khổ học là mục đích, đã cho phép NTT nhanh chóng làm quen với việc hiểu biết ngôn ngữ mới. Lịch sử dường như được sinh ra để thiên tài thi triển các vận hội và quyết định của mình. Một năm sau khi NTT học tiếng Pháp và 5 năm sau khi đỗ Phó Bảng, Nguyễn Sinh Sắc đã không thể từ chối được đề nghị ra làm quan của triều đình nên đã vào Huế nhận chức quan thanh tra tại Bộ Lễ - chịu trách nhiệm giám sát học trò trường Quốc Tử Giám (trường Quốc Học hiện nay). Phải chăng Cụ Sắc ra làm quan là để trả ơn Cao Xuân Dục và Hồ Sĩ Tạo? Nghi vấn vẫn mãi chỉ là nghi vấn mà thôi. Nói theo cách nói của cố GS Trần Quốc Vượng, rất có thể các huyền thoại là thật nhưng không thực. Hồ Sĩ Tạo đã từng dạy học ở Quỳnh Lưu, Nghệ An trong nhà của viên quan thu thuế họ Hà và sau này, cô con gái của gia đình ấy là Hà Thị Hy đã lấy Nguyễn Sinh Nhâm (tức Vương) - một nông dân, ông nội của NTT, với tư cách là vợ lẽ. Lịch sử cũng ỡm ờ khi hé lộ rằng Nguyễn Sinh Sắc là con trai nông dân duy nhất trở thành học trò của trường Quốc Tử Giám và cũng là cử nhân duy nhất được cử làm giám thị kỳ thi Hương (ở Thanh Hóa năm 1900), dù luật lệ của triều đình quy định cử nhân không được làm giám thị... Trước và sau Nguyễn Sinh Sắc, không có những tiền lệ ấy.
3.
Sau khi vào Huế, NTT và anh trai thi đỗ vào trường Quốc Học - thời đó có tên gọi trong dân gian là “Trường Địa Đàng” (thành lập chính thức từ năm 1896 theo sắc chỉ của vua Thành Thái). Bao giờ cũng ngồi bàn cuối, ăn mặc rất quê, nói tiếng Nghệ cực nặng, học rất giỏi và hay đưa ra những câu hỏi “khiêu khích” chế độ thống trị - đó là dấu ấn của NTT. Quan sát và phân tích, suy nghĩ và hỏi trong một môi trường “may mắn” vì các thầy giáo của NTT như GS Lê Văn Miên, Hoàng Thông là những người nổi tiếng về quan điểm chống Pháp. Không ít lần NTT đã chỉ trích chính quyền công khai trước đám đông và một trong những đề tài NTT hay nói là đòi giảm thuế, mà theo NTT là quá nặng, cho nông dân.
Mùa thu năm 1907, vua Thành Thái buộc phải thoái vị (1889-1907) để nhường ngôi cho vua Duy Tân, 8 tuổi. Niên hiệu Duy Tân gợi nhớ đến cuộc cách mạng Meiji (1868) – mà không ít nhà sử học ngày nay cứ khăng khăng rằng đó không phải là cách mạng, chỉ gọi là cải cách Minh Trị Duy Tân. Duy Tân, có nghĩa là “hiện đại hóa” và cũng có nghĩa là kích thích sự đấu tranh. Khởi đầu là phong trào cắt tóc ngắn do Nguyễn Quyền – sĩ phu của trường Đông Kinh Nghĩa Thục phát động. Ngày 11 tháng 3 năm 1908, nhiều nông dân ở Quảng đã kéo về thủ phủ Hội An để đòi giảm bớt lao dịch và thuế. Đầu tháng Năm, phong trào chống thuế lan đến Huế, đánh dấu bằng cuộc đấu tranh của nông dân làng Công Lương. Nhân dân Công Lương đã bắt tri huyện nhốt vào cũi tre, áp giải hắn đến dinh khâm sứ Leveque. Cuộc nổi dậy của nhân dân Thừa Thiên Huế đã nhanh chóng phát triển mạnh mẽ thành một đợt sóng mới của lòng yêu nước.
Ngày 9-5-1908. Khi đang cùng với đám đông học sinh đứng bên bờ sông Hương quan sát cuộc biểu tình của nông dân tràn vào thành phố Huế, NTT bất ngờ túm lấy cổ áo của hai người bạn và yêu cầu họ cùng với mình tham gia vào đoàn biểu tình để phiên dịch cho nông dân. Trên đường đi, NTT đã lật ngược cái mũ nan đang đội trên đầu ra ý cần phải phá bỏ hiện trạng. Mặc dù Leveque đã đồng ý thương thuyết và NTT đã phiên dịch nhưng thực dân Pháp vẫn đàn áp cuộc biểu tình một cách dã man, rất nhiều người chết và bị thương.
Ngày hôm sau (10-5-1908), vào lúc 9h sáng, khi NTT đang học tiết thứ ba thì một toán cảnh sát đến tận phòng học và viên đội trưởng đã tuyên bố rằng người có hành vi quấy rối là NTT phải thôi học. Đó là lần cuối cùng NTT được chính thức ngồi trong một lớp học.
Nguyễn Sinh Sắc đã bị khiển trách nặng về hành vi của con mình và sau đó, vào năm 1909, bị triều đình Huế điều chuyển làm tri huyện Bình Khê, Bình Định.
4.  
NTT chỉ tham gia phong trào chống thuế đúng một lần nhưng đó là lần quyết định, bước ngoặt của cả cuộc đời anh. Chính xác, không phải từ Sài Gòn, mà chính là Huế, đã đưa NTT ra đi tìm đường cứu nước.
Cả nhà bị chế độ thực dân vùi dập, theo dõi. Đó là một hoàn cảnh tồi tệ. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Sinh Sắc, sau khi bị cách chức, ngày 26-2-1911 rời Đà Nẵng để vào Sài Gòn và cùng thời gian đó, NTT đã “biến mất” khỏi trường Dục Thanh, Phan Thiết.
Huế là nơi đã nuôi dưỡng tâm hồn và trí tuệ của anh. 11 tuổi, trên đất Huế, NTT biết được thế nào là nỗi đau mất mẹ. 18 tuổi, cũng từ Huế, NTT biết rõ con đường phải đi, sẽ đi và cái đích phải đến. Cuộc thương lượng với khâm sứ Leveque cho NTT thấy rõ một điều: Mọi cuộc đấu tranh nửa vời, thiếu đường lối đúng đắn, thiếu sự lãnh đạo thống nhất chỉ là sự tuyệt vọng của thành công và nhận thức. Lòng dũng cảm, nếu không được đặt đúng chỗ, đúng lúc, tất yếu sẽ biến thành sự vô ích của mục đích. Sức mạnh của “cuộc cách mạng nông dân” – như về sau Hồ Chí Minh đã viết (HCM TT, T 8, tr. 569) là to lớn; nhưng nó chỉ trở thành thế lực một khi có tổ chức chặt chẽ, có đường hướng đấu tranh đúng đắn, rõ ràng. Hơn ai hết, NTT hiểu rõ việc thương lượng với kẻ thù là vô ích và lòng dũng cảm của sự không hiểu biết là vô nghĩa như thế nào!

Huế, với “sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu” (Thu Bồn), đã trở thành cái nôi để ươm trồng, hun đúc, nuôi dưỡng tinh thần, ý chí và khát vọng của người thanh niên yêu nước NTT. Khoảnh khắc mà NTT đến với phong trào chống thuế cách đây 100 năm là “khoảnh khắc” dài nhất, đậm nhất trong cuộc đời của một con người. Nói rộng hơn nữa, là dài nhất trong lịch sử dân tộc Việt . Chính nhờ cái khoảnh khắc “định mệnh” ngày 9-5-1908 ấy mà đất nước Việt đã bắt đầu để có được một vĩ nhân. Nói chính xác hơn, NTT đã từ Huế ra đi để cùng với dân tộc, đến với một thời đại mới - Thời đại Việt - Hồ Chí Minh.
                                                                                                 Huế, 13.11.2007
                                                                                                            H.V.T

(nguồn: TCSH số 228 - 02 - 2008)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • LÊ HUỲNH LÂMCó thể gọi xứ Huế là thành phố của những tiếng chuông. Sự khởi đầu của một ngày, một ngày mai hun hút trong tương lai cũng như một ngày tận trong nghìn trùng quá khứ. Một ngày mà âm thanh từ đại hồng chung phát ra; vang, ngân, vọng và im bặt. Người ta gọi âm thanh đó là tiếng chuông. Vậy thì, im bặt cũng là một phần của tiếng chuông.

  • MINH CHUYÊNCảnh làng mới Trà Tân cuối chiều mùa đông. Con suối chảy qua nước trong veo, róc rách. Phía tây con suối cách làng chừng nửa tầm mắt là rừng Sắc Rông, đủ các loại cây tầng tầng, lớp lớp. Cánh rừng đang chìm trong sương chiều. Rừng hoang vắng, huyền bí. Người ta kể sau ngày chiến tranh chấm dứt, rừng Sắc Rông càng trở nên bí ẩn. Người chỉ có vào mà không có trở ra. Vậy mà mấy tháng gần đây lại thường xuyên xuất hiện một người đàn bà ở đó.

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGNgày xưa nhà mẹ nghèo hung, cơm không có ăn, khố không có mặc, suốt ngày lang thang trong rừng đào củ mài củ sắn kiếm cái cho vào bụng. Có ngày không tìm được chi, bụng đói lắc lư.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTrước ngày Huế khởi nghĩa 23/8/1945, có một sự kiện khiến cả thành phố náo nức vui mừng: đó là việc lá cờ đỏ sao vàng được kéo lên đỉnh cột cờ Huế ngày 21/8 thay cho cờ quẻ ly. Người chiến sĩ được đồng chí Trần Hữu Dực trực tiếp giao nhiệm vụ quan trọng ấy là chàng thanh niên 25 tuổi Đặng Văn Việt (ĐVV).

  • NGUYỄN QUANG HÀTạp chí văn nghệ của 6 tỉnh Bắc miền Trung gồm: Xứ Thanh, Sông Lam, Hồng Lĩnh, Nhật Lệ, Cửa Việt, Sông Hương có một cam kết thú vị, luôn luôn trong nỗi chờ mong là mỗi năm anh chị em trong tạp chí thay nhau đăng cai luân phiên, mỗi năm gặp nhau một lần, ở thời điểm thích hợp nhất do tạp chí đăng cai tự chọn.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀOTháng bảy, nồng nàn hương lúa mới trên những ruộng lúc mới vừa mùa gặt tháng 5, mùi rơm rạ kéo tôi ra khỏi thế giới của những đường phố xênh xang, đầy bụi và chật người. Tôi leo lên một tầng gác và nhìn về hướng quê tôi, hình dung đủ thứ nhưng nhớ vẫn là khói lam chiều với dáng mẹ tôi gầy cong như đòn gánh.

  • VĨNH NGUYÊNPhải nói tôi có ý định dông một chuyến xe máy ra Bắc đã lâu mà chưa có dịp. Nay có điều kiện để đi song tôi vẫn băn khoăn, không hiểu chuyến đi này mình sẽ gặp những ai đây? Hay là phải thở dài dọc đường xa với những cảnh đời khốn khó? Thôi thì tôi chỉ biết đi và đi.

  • VÕ MẠNH LẬP                Ghi chépNhân vật Mười Hương nhiều người đã biết đến qua sách báo và đặc biệt là vùng đất Nam Bộ - Sài Gòn.

  • DƯƠNG THÀNH VŨTrong đêm mỏng yên tĩnh dịu dàng, một mình một cõi với ly rượu trắng, cùng mùi hương của hoa rộn ràng, huy hoàng phát tiết; tôi miên man nhớ tới cõi người đến- cõi người đi nơi xa chốn gần, thời gian tuyến tính lẫn thời gian phi tuyến tính.

  • NHẬT HOA KHANH Mười năm những mấy ngàn ngày... (Tố Hữu: Mười năm )

  • TRUNG SƠNĐoàn văn nghệ sĩ Thừa Thiên - Huế (TTH) lên đường “đi thực tế” một số tỉnh phía Bắc vào lúc lễ giỗ Tổ ở đền Hùng (10 tháng 3 âm lịch) vừa kết thúc. Tiền có hạn, thời gian có hạn chưa biết sẽ tới được những đâu, nhưng ai cũng “nhất trí” là phải lên Phú Thọ thăm Đền Hùng, dù lễ hội đã qua.

  • ALẾCHXĂNG GRINTại Luân Đôn, mùa xuân năm 1921, có hai ngài trung niên ăn mặc sang trọng dừng chân ở góc đường, nơi phố Pakađilli giao nhau với một ngõ nhỏ. Họ vừa ở một tiệm ăn đắt tiền đi ra. Ở đó, họ đã ăn tối, uống rượu vang và cùng đám nghệ sỹ của nhà hát Đriuđilenxky đùa cợt.

  • PHONG LÊQuê tôi là một xã nghèo ven chân núi Mồng Gà, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Từ Hà Nội, việc về thăm quê, đối với tôi không mấy khó khăn. Hồi là sinh viên thì mỗi năm hai lần, lần nghỉ hè lần nghỉ Tết. Khi đã là cán bộ, có gia đình thì mỗi năm một lần, cả nhà dắt díu về, với hai hành trình là tàu hoả từ Hà Nội vào Vinh, rồi là xe đạp từ Vinh về nhà.

  • NGUYỄN TRỌNG HUẤNBạn tôi là nhà thơ. Thơ ông hay, nổi tiếng, nhiều người ái mộ. Thời buổi “nhuận bút không đùa với khách thơ”, kinh tế khó khăn, gia đình ông vẻ như cũng “rất ư  hoàn cảnh”.

  • ĐẶNG NHẬT MINHGia đình tôi ở Huế có một cái lệ: cứ vào dịp trước Tết tất cả nhà cùng nhau lên núi Ngự Bình quét dọn, làm sạch cỏ trên những nấm mộ của nhũng người thân đã khuất. Sau đó trở về nhà thờ của dòng họ, cùng nhau ăn một bữa cơm chay. Cái lệ đó người Huế gọi là Chạp. Ngày Chạp hàng năm không cố định, có thể xê dịch nhưng nhất thiết phải trước Tết và con cháu trong gia đình dù đi đâu ở đâu cũng phải về để Chạp mộ.

  • DƯƠNG PHƯỚC THUMùa xuân năm Đinh Mùi, 1307, tức là chỉ sau có mấy tháng kể từ ngày Công chúa Huyền Trân xuất giá qua xứ Chàm làm dâu, thì những cư dân Đại Việt đầu tiên gồm cả quan binh gia quyến của họ, đã rời khỏi vùng châu thổ sông Hồng, sông Mã theo chân Hành khiển Đoàn Nhữ Hài, vượt qua ngàn dặm rừng rậm, núi cao, biển rộng đến đây cắm cây nêu trấn yểm, xác lập chủ quyền quốc gia.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNGNhững ngọn gió heo may cuối cùng đã tắt. Nắng buổi sáng hanh vàng ngoài bến sông. Hàng cây trên phố Huế đã chừng như thay lá, lung linh một màu lá tơ non, mỏng như hơi thở của bầy con gái trường Hai Bà Trưng đang guồng xe đạp đến trường. Mùa xuân đã về bên kia sông. Đã về những cánh én nâu đen có đôi mắt lay láy màu than đá. Đã về những đóa hoa hoàng mai, vàng rưng rức như một lời chào ngày tao ngộ...

  • TÔ VĨNH HÀCon chó Giắc nhà tôi đẹp nhưng mà hư quá. Tôi hét nó nằm thì nó cứ giương mắt ra, rồi ngồi. Tôi không cho nó chạy vào nhà vì sợ nó làm bẩn cái nền nhà vừa lau thì nó đi vòng cửa sau, khi tôi ra cửa trước. Bực nhất là ngày lễ - nói chung là những ngày có việc, bất cứ ai vào nó cũng sủa rộn ràng. Tôi thì không muốn xóm giềng để ý. Vậy mà chó có biết cho tôi đâu...

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGGhi chép 1.Tôi tự đặt ra một “hạng mục” đinh cho chuyến đi thực tế sáng tác ở A Lưới lần này, và hạ quyết tâm thực hiện bằng được, đó là: phải lên được Đồi Thịt Băm!

  • LGT: Liên Thục Hương là một nhà văn Trung Quốc đương đại, tự ví mình là con mèo đêm co mình nằm trên nóc nhà, nhìn cuộc sống thành phố tấp nập đi qua đáy mắt. Liên Thục Hương còn ký bút danh Liên Gián, có số lượng bản thảo lên tới hơn hai triệu chữ. Năm 2003, “Bài bút ký đầy nước mắt” đã được post lên mạng và năm 2004 nó đã được dựng thành phim và bộ phim ngắn này làm tiền đề cho tác phẩm điện ảnh đoạt giải thưởng của Trung Quốc. Sông Hương xin giới thiệu câu chuyện này qua bản dịch của nữ nhà văn Trang Hạ.