Nguyễn Khắc Thạch - người đi chân trần trên lưỡi dao bén của sự thật

10:48 12/09/2008
THÁI DOÃN HIỂUNguyễn Khắc Thạch làm thơ như đi chân trần trên lưỡi dao bén của sự thật, máu toé vãi ra. Anh lấy dự cảm của mình làm thuốc băng bó. Vết thương thành sẹo. Thạch gọi đấy là thơ! “Thơ là sẹo của sự thật”.

Như chàng “vệ sĩ của đêm đen” (chữ dùng của Ngô Minh). Nguyễn Khắc Thạch là người trầm tư trước cuộc đời, phán xét sự vật đến tận cùng bản chất, anh can đảm “hôn xác chết”, tự tin, lặng lẽ đối đầu với chúng. Đứng chênh vênh một chân bên dòng sông một bờ, Nguyễn Khắc Thạch rụt rè tường trình lại khá sắc bén và chọn lựa những phát hiện mới lạ về cõi người hiện sinh, chỉ ra những nguyên cớ đang huỷ hoại nhân tính làm tan rã các kỷ cương giường mối xã hội.
Thời tôi sống ruồi nhặng sành mâm cỗ
họ hàng tôm vẫn lộn đít lên đầu
chó ngoại hết hời ra kiếm ăn hè phố
trẻ bụi đời lòng cạn mắt sâu.

Thời tôi sống vô cảm điều trông thấy
dọc đường quan mặt nạ mặt tiền
những thầy tu hành đạo trên xe máy
hẳn đường về cõi Lạc có gần hơn.

Thời tôi sống giấc mơ vàng ô nhiễm
trọc phú lập loè như đom đóm ma trơi
tôi ươm bạc chay thiền phù phiếm
anh tinh đời vờ một gã ham chơi.

Thời tôi sống thương mình trơ cá gỗ
nỏ tơi mang mà chẳng áo công hầu
đất của cỏ thì trời cao gác trọ
sợ miếng mồi như cá sợ mắc câu.

Thời anh sống khác thời tôi sẽ viết
sống thời tôi chín dễ nên mười          
nhưng không dễ sống mà không biết
sống mà nghi mình có phải là người.
                                                     
(Gửi Nguyễn Trọng Tạo)
Sự bất lực trước đấng cao xanh, vĩnh hằng, nỗi cuồng say dâng hiến, bước đam mê gập ghềnh kiếm tìm nửa kia trong tình yêu, cái đẹp lao đao bởi thương tích đầy mình, tự do bị bắt chẹt, “những khoảng trống lương tri bị dối lừa”… đã dẫn đến những vỡ mộng, con người rơi vào cõi mênh mông buồn “Ta chẳng có gì ngoài ta – ngoài chẳng là gì trong ta – áo cơm bờm xơm vỗ mặt – hư danh cầm cố thi ca” (Tự khúc). Thơ Nguyễn Khắc Thạch buồn, mang mang nỗi buồn trước hy vọng và tuyệt vọng, trước nỗi quay quắt của áo cơm cùng sự khủng hoảng đức tin, trước sự dấn thân trong nước mắt tủi hờn đầy kiêu hãnh. Chẳng riêng gì Thạch, Cụ Nguyễn Du xưa cũng đã từng than “Cổ kim hận sự thiên nan vấn” (Những mối hận xưa nay khó mà hỏi trời được). Người ta khổ vì có trí tuệ, Thạch khổ vì biết quá nhiều! Anh gọi nỗi buồn về nhận mặt, bóc trần nó ra cho mọi người thấy. Nhà thơ không ngồi nhấm nháp tận hưởng thú đau thương như Lưu Trọng Lư, anh thành khẩn nhìn thẳng vào nỗi buồn để nhận diện chính mình và mọi lẽ quan thiết khác ở đời. Cuộc tìm kiếm mình là một hành trình khổ ải “Ta mang lỗi lầm của máu không đổi màu - Sự nhức nhối thời gian hoá thạch” (Nơi ta sẽ về). Năng lượng cảm thức sâu sắc của nhà thơ đã thuyết phục được chúng ta. Chính vì vậy, đến với thơ Nguyễn Khắc Thạch đòi hỏi ở bạn đọc ít nhiều đồng điệu.
Đầu này một chiếc dép
chỉ một chiếc dép đầu này
mà đầu kia phải lệch
mà đầu kia là cả… không gian
                                      (Bồ Đề Đạt Ma)
Đắng cay nào đắng cay hơn:
Tôi như gã tín đồ bị rút phép thông công
khi thiên đàng dang ngang sợi tóc
em soi vào tôi gương mặt người đàn ông khác
em chỉ sống vì tôi khi đã chết cho người
                                                            (Mặc cảm)
Có nỗi đau nào đau hơn:
Ta ngồi dại hoá đôi khi
Thèm đau lần nữa những gì đã đau
                                               
(Gửi trăng)
Khi thịnh cần cẩn trọng, khi suy cần nhẫn nại. Mọi con đường phần cuối giống nhau, chỉ khác nhau phần đầu. Điều trọng yếu là phải biết sử dụng đời sống, chứ không than vãn để kéo dài tuổi sống. Mặc dù thế giới đầy khổ ải, song cũng đầy những tấm gương vượt qua bể khổ ấy bằng chính con thuyền thơ mỏng manh của mình.
“đứa con hoang của mọi tín điều…”, thi nhân trở dạ làm thơ trong tâm thế ấy. Mạch thơ sám hối, trầm uất lung linh lan toả phản ánh sự chiêm quan khắc khoải, quằn quại bởi roi vọt tai ương và giàn giụa nước mắt cô độc. Giống như chúa Giêsu lê nặng cây thánh giá. Nguyễn Khắc Thạch oằn lưng vác nỗi khổ đau của đời người “Anh cứ đi như chiếc bóng giữa đời – Mong tìm được những gì không mất”.  Nhà thơ phơi trần góc khuất tâm linh, chiếu rọi ánh sáng lương tri lương năng để phục sinh mình. Thơ Thạch được thai nghén trong sự tuyệt vọng “anh như xác vỏ chai lăn ra ngoài cuộc rượu” để sinh hạ ra những đứa con của sinh tồn.Trong một chừng mực nào đó, cảm quan của nhà thơ thiếu sáng, có lúc duy lý đến phũ phàng:
Tôi say lấp chiều lỗi hẹn
có như không là gió là lời
đêm cất vó tang bồng tơ nhện
đom đóm lập loè vỗ mặt trêu ngươi
           
Tôi say sấp chiều đêm rơi
ngõ buồn khê ngọt đường hoa trái
Rồi sẽ đắng người ơi khi tỉnh lại
thấy những điều giả dối trong nhau
                                                  (Ẩn ức)
Mở mặt chào cơm áo
Ôm lòng buốt ngọc châu
Mắt chiều vô tôn giáo
Nhắm linh hồn vào đâu.
                                   
(Tứ thơ)
Thơ Nguyễn Khắc Thạch hút người bằng tâm tình kín đáo, là tiếng vọng của nỗi buồn thấm, cao khiết, trang trọng.
Trời tròn lưng bánh tét
Đất vuông lòng bánh chưng
Dân nghèo thương ngày tết
Gói đất trời rưng rưng.
                                      
(Gói)
Biển như ngân giữa hồn tôi
Câu thơ nghiêng biển nghiêng trời là em
                                                            (Biển và em)
Nhà thơ luôn sống một thế giới ảo:
Có một mùa hè mắc cỡ
Cỏ hoang neo gió sững sờ
Lá bàng rơi nung lửa nhớ      
Đài sen rụng vỡ hương mơ
                                      (Kí ức)
Xuân biên giới với nét cọ phác thoáng đẹp đến thắt lòng :
Nơi ấy xuân về sớm hơn
Nắng trở mình phơi mái núi
Rừng già loà xoà bóng tuổi
Vội xanh lại mé đông tàn.
                                     
(Biên giới)
Nhà thơ đằm mình trong sự chiêm nghiệm, suy tưởng đến kiệt cùng:
Hạt mưa cứ ngỡ của trời
Ai ngờ đất khát vẽ vời làm mưa
Nối bây giờ với xa xưa
Biết mưa còn nối bây giờ - mai sau?
Hạt mưa tan vỡ vì nhau
Hình như mưa cũng đổi màu buồn vui.
                                                            (Mưa)
Nỗi buồn đó của Nguyễn Khắc Thạch mang một hình thái cứu rỗi. “Loại thơ cao siêu luôn hướng tới sự bất tử trong nỗi thống khổ của con người”. Từ mấy thế kỷ trước, Vonter đã chỉ ra như thế.
Thơ Nguyễn Khắc Thạch được nuôi dưỡng bằng một thứ tình yêu trần trụi, máu thịt nên kiệm lời, tứ đúc, ý tưởng dồn nén trong từng câu chữ. Nó là một thứ văn bia tác động đến tư duy trước, truyền mỹ cảm đến sau.
Bên thềm hoang
thiếu phụ
thoát y nằm
Ngọn nến cháy
sau vầng trăng khuyết…
                                    (Thiền)
Người qua đêm mang đêm đi xa
Đêm thắp nến hàn trăng lữ thứ
Đêm thấm khát màu son trinh nữ
Để tái sinh cho huỷ diệt sau cùng…
                                                (Đêm)
Nhà thơ sống trong linh giác mùa thu “Nắng thun chiều gió úa cài then”; sống trong cơn uất ức “biên chế cõng mấy nhà thơ tầng trệt – ăn nói cao hơn tầm thước con người” (Gửi Nguyễn Trọng Tạo); sống trong tâm trạng níu kéo sợ hãi “Muốn ôm chặt chiều - Chiều lại ngả vào đêm” (Chiều), bởi nhà thơ đinh ninh rằng mình đã bị lừa dối ngọt ngào “Tôi đi dọc tháng năm thừa – cô đơn úp mặt dối lừa cô đơn” (Gửi Nhật Lệ), Tín nghĩa bị xâm phạm, nhà thơ thắc mắc đến cái “đức tin có bảo hành – và chỗ dựa có đức tin - chỉ là những gì mong manh hư ảo” (Ý tưởng). Nhà thơ hoài nghi “chiếc mặt nạ hài hước - sự thật trở nên tàn nhẫn hơn”. Nhà thơ buồn vì “bao giờ con người cũng là một thực thể kép - ước vọng thì đầy nhớ tiếc thì vơi” (Thông cảm). Nguyễn Khắc Thạch luôn mặc cảm coi mình là kẻ đang lâm nạn “anh bị chém bằng lưỡi rìu ngôn ngữ - những đổ vỡ hư danh như hoàng hôn bầm dập đáy chiều - bức tranh món ăn không no được bụng - hiện thực cục cằn như kẻ đói yêu…” (Hiện thực). Không có gì làm ta cao thượng bằng một niềm đau khổ  lớn lao. Trông cây mà ngẫm đến mình “Thấy thương cây cũng cụt đầu vì cao” (Với cây). Người ta thường căm ghét những gì làm họ sợ. Và, chết là sự giải thoát cho kiếp người “Áo cơm thôi sấp ngửa – Hương khói còn so đo - Những gì thắp được lửa - Rốt cùng đều thành tro” (Viếng mộ). Nhà thơ lại ngồi ước gì được quay về cái hồi  “Mải chơi tiền lá rụng đầy tuổi mơ”, mong lấy lại niềm tin xanh “Nơi cây cỏ trinh niềm hoang dã - mỗi bước đi qua xanh mãi thuở ban đầu”. Một người phải chờ đợi, thời gian dài, nặng nề và lạnh lắm “Đôi khi nghe cái quen nghe mà rợn – Chó sủa từ không thành có… đêm dài”  (Tiếng đêm). Nguyễn Khắc Thạch viết về thời gian khá hay và rất sâu. Theo anh, nó là khí cụ hiệu nghiệm để đong lường kiếp sống của chúng ta:
Ngày là kim chỉ thời gian
dại khờ khâu vá khôn ngoan kiếp người
ngày là lưỡi hái lường chơi
mỗi ngày liếm một mảng đời như không.
                                                           
 (Ngày)
Em chờ anh
sau mặt phẳng thời gian cuốn chiếu
hồn đá vọng phu
nửa thừa mang tang nửa thiếu
                                                (Hoài vọng)
Thời gian như cái thùng bia
Rót vào cốc chén là chia tháng ngày

Không gian như nắm bàn tay
mở ra cầm chốn lưu đày bể dâu

Người ta vói mắc hai đầu
Thả mồi bong bóng mà câu… chính mình
                                                           
(Ngộ)

Chừng ấy đủ biết Nguyễn Khắc Thạch là người đang bệnh! Anh mắc chứng đa cảm trầm kha. Thà bị bệnh ở thể xác còn hơn bệnh ở tâm hồn. Bệnh tật của tâm hồn còn đáng sợ hơn bệnh tật của thân thể. Thân bệnh có thể nhờ người khác chữa dùm, nhưng tâm bệnh phải chính mình chữa lấy. Chúng tôi thấy Nguyễn Khắc Thạch cũng đang tự chữa cho mình rồi đấy. “Những căn bệnh tuyệt vọng cần những liều thuốc tuyệt vọng” (Ngạn ngữ Anh). Điều chính yếu trong cuộc đời là không nên than vãn điều gì và không bao giờ nhìn lại những đổ vỡ phía sau.
Nguyễn Khắc Thạch có một bài thơ thuộc hàng kiệt tác khi anh viết về tình yêu đơn phương. Ngọc toàn bích không hề gợn một chút tì vết nào:
Có một dòng sông mang tên em,
Dòng sông anh tự đặt
Xin mùa thu chiếc lá làm thuyền

Có một dòng sông  trôi vào lãng quên
nước trong như nước mắt
điều chưa đến mà sao thấy mất

Có một dòng sông chỉ có một bờ
Phía bên kia quay mặt
dòng sông anh không qua được bao giờ.
                                                (Dòng sông một bờ)
Tiếp tục lối tư duy đó, Nguyễn Khắc Thạch mạnh bạo, phóng túng và quả quyết phá vỡ cấu tứ niêm luật truyền thống, làm cho cổ điển và tự do hài  hoà vào nhau tạo nên một từ trường mới bằng một thi pháp mới:
Hồn của mưa làm lạnh cơn mưa xác
khiến cơn mưa đồng loã giọt buồn
để em thấy mưa là nước mắt

Những cơn mưa tái sinh màu đất
những cơn mưa thuỷ táng khung trời
để em thấy mưa là hai mặt

để em thấy mưa là chia cắt
phía thành sông vẫn chảy rẽ chia bờ
để em thấy mưa không dập tắt
cõi mật tinh lửa vẫn cháy trong mơ…
                                                (Mưa hai mặt)
Từ thi pháp hiện đại đó, Nguyễn Khắc Thạch rất có ý thức lập tứ cho từng bài thơ, từng câu thơ, dựng lên được xương cốt vững chãi cho toàn bài thơ. Thử xem, anh đã khắc đá được một chân dung tính cách chân xác nhờ cung cách đó như thế nào:
Ông vốn trắng tay không chải đầu bằng lược
Cái đầu nhà thơ đâu cần sự ve vuốt nào
Ông nuôi rượu canh giữ lòng trung thực

Và ông đã nhặt được chính mình từ những thứ đem cho
Có nỗi đau ngoài tầm nước mắt
Cánh chim cô đơn khi vượt trước bầy đàn.
… Ông đã vớt thơ ra khỏi sóng đời mình…
                                               
(Trích ngang Phùng Quán)

Thơ Nguyễn Khắc Thạch ánh lên chất mỉa mai, phúng thích thói đời và những mặt trái của đời sống xã hội để người đọc nhận thức nó, thấm thía phẫn nộ vì nó:
Ai đã thấy những gì cao hơn các tượng đài
Những gì sâu hơn đáy cốc trên bàn tiệc
Ai đã lấy ngực che Tổ quốc?
Còn ai đem Tổ quốc che thân?
                                    (Những câu hỏi bâng quơ)
Khi niềm tin ta đã đóng đinh
thì cây thánh giá kia
cần chi phơi hình Chúa

Sự thật là thanh gươm lành trong vỏ
nhưng rút ra rồi…nó đau đớn biết bao.
                                                           
(Trả giá)
Một số nhà thơ cả trẻ lẫn già bây giờ ưa chạy theo thi pháp hình thức mà lờ đi thi pháp nội dung. Họ chỉ tạo ra những cách nói lạ tai nhưng vô nghĩa. Nguyễn Khắc Thạch quan tâm cân đối cả hai. Những đoạn thơ vừa dẫn trên  rất dân tộc và cũng khá hiện đại. Thi pháp ấy súc tích đến mức đã tạo ra những khoảng lặng cho người đọc ngẫm nghĩ.
Cây lá tự rứt mình trả nợ đất đai
Câu thơ rứt nỗi buồn chết không thành xác
Cuộc vay trả quy đồng cỏ rác
Rợn lối mòn ảo giác mùa thu.
                                   
(Ảo giác mùa thu)
Cá tính sáng tạo thơ tạo nghĩa với hai yếu tố triết và thiền của Nguyễn Khắc Thạch mạnh, hình thành nên bản lĩnh thơ. Các thi phẩm của anh đều mang dấu ấn hiện đại, nhân bản.
Giữa hai dòng thơ “phấn son” và thơ “lem luốc”, thơ Nguyễn Khắc Thạch thuộc dòng thứ hai.
“Thảy vốn liếng đời ta nhóm lửa yêu thương”, Nguyễn Khắc Thạch đã huy động óc tim cùng với “âm bản của nước mắt”, phát giác bề sâu sự vật, chế tạo được thứ cốt mìn chứa đầy buồn đau và trách nhiệm đang “nổ tung những nhịp thơ đá vỡ” (chữ của Nguyễn Trọng Tạo).
                                                                                                            T.D.H

(nguồn: TCSH số 228 - 02 - 2008)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.

  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!

  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.

  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H