Nguyễn Hữu Hồng Minh - Kẻ phân vân khi biết mình là người

08:58 26/05/2010
VĂN CẦM HẢI(Nhân đọc “Giọng nói mơ hồ” - Nguyễn Hữu Hồng Minh. Nxb trẻ 1999)

Ảnh: nguyenhuuhongminh.com

Hà Nội, một đêm 15/4, đêm ám ảnh 2 lần đứt dây nửa chừng của cây đàn violon “Ex Carodus” mà Ngân hàng quốc gia Áo cho Julian Jachlin mượn để biểu diễn cùng Lambert Okis trong chương trình hòa nhạc Hennessy.. Có lẽ hơn một thế kỷ trước, khi đặt chân đến Côn đảo- Camille Saint- Saens không thể ngờ được 100 năm sau- tại Hà Nội, bản Khúc dạo đầu và Khúc ngẫu hứng Rondo Capriccoso nóng bỏng của mình sẽ bị ngắt quãng hai lần vì e chăng cây đàn không chứa nổi dòng nhạc tuôn trào cùng cảm hứng của người chơi nó.

Sau 2 lần đứt dây, Julian Jachlin dường như trở thành một vị thần âm nhạc, anh không còn nữa và công chúng ngắm nhìn anh, nghe anh như một khối nhạc đa chiều vang lên giữa trời Hà Nội. Chính cái phần ngẫu hứng, không quy tắc nề nếp đã tạo nên một nghệ sĩ tự do của nghệ thuật.

Và, trong dòng ngẫu hứng âm thanh ấy, tự dưng tôi nhớ đến Minh- một giọng nói mơ hồ mất trật tự rất ngẫu hứng qua cơn mưa chữ ám tượng qua những gương mặt cầu hồn mà Minh đã liều lĩnh hiện hữu ra giữa dòng đời. Sự mất trật tự trong thơ của Minh tạo nên một hệ tuần hoàn có trật tự của ý thức, tuy nhiên không phải ai cũng dễ dàng nhận ra hệ tuần hoàn này bởi nó được cấu trúc bằng sự miên man (diffus) và sự hỗn hợp (suncrétique) của ý thức và mong manh rụng ngàn sao xuống tiếng nấc mơ hồ mà cũng đôi khi bùng nổ những mặt trời Ngũ điểm trên lâu đài thi cảm uy thiêng, thậm chí trên lâu đài uy thiêng ấy anh đánh rơi ở đâu đó chiếc lưỡi của mình. Mỗi người đều tìm ra một Minh cho mình qua tập thơ đầu tay này, Minh sợ hãi, Minh tâm thế, Minh bè trầm ngạo nghễ, Minh cuộc chơi... Ôi chao, lắm Minh trong một Minh quá! Tuy chưa thành quan niệm nhưng dẫu sao nó cũng phần phác thảo nên hình hài Minh.

Với tôi, đơn giản Minh là một con người, và vì làm thơ, Minh đã phân vân khi biết mình là người. Sự sống thật là sự sống réo trên đầu sự chết/ sự sống thật là sự sống chưa bị giết, sự sống của Minh đã chết trong cơn đạn chữ bắn vào bờ. Tự nguyện chết cơn đạn chữ nhưng lại sống trong hơi thở dài ngột đêm/ âm âm/câm/lầm rầm/lầm rầm/lầm rầm/lầm rầm con tàu lao đi rách mặt không ngày tháng vì ngày tháng năm chùm quả nặng/ phía trước phía sau u ám bờ dài/ khoảng khắc vụt sáng quá ngắn và quá ít/ nhiều lúc không định nghĩa được mình là ai? Hơn 40 bài thơ là hơn 40 lần Minh đi tìm Minh trong nỗi ám ảnh về thời gian và cái chết. Thời gian là một thế lực bất khuất như dòng sông mê sảng cuộn song triều dựng mãi/ những cuộc đời kiếp mượn dạt trôi. Còn cái chết là một đối trọng, thời gian là cái chết của con người nhưng cái chết của thời gian là chốn nơi nao? Tôi thích những ai băn khoăn về cái chết và tôi yêu hơn những ai xem cái chết là nơi xuất phát của tình yêu vì cây cầu đó bao lần ta đã vượt/ lại dường như chưa hề có trong đời/ khi đến đích nghĩa là ta vẫn bước/ trong sa mù bảy sắc biếc sinh sôi. Cái chết không chỉ dừng lại ở một khái niệm trong vùng sâu ký ức của triết học, mà qua giọng nói mơ hồ trò ngữ ngôn của mình, Minh đã thành công khi hòa nhập nó vào dòng chảy chan chứa bao khát vọng, day dứt, lo âu, khốn nạn, thất hứa, trữ tình và phân vân của một giọng thơ- hay không hay không bàn- nhưng nó là của riêng một nhân cách: chuông có tiếng của chuông mùa có tiếng của mùa. Tôi tìm giọng nói, tôi tìm ban mai, tôi tìm câu thơ...điệp khúc “tìm kiếm” và giải mã bằng nhiều con đường “tôi về” bàng bạc khắp mấy trăm câu thơ của Minh, đọc anh, tôi bỗng dưng “mơ hồ” về cả chính mình bởi tôi cũng “phát hiện ra mình trừu tượng thế hệ... bay qua đêm, bay qua hạnh phúc/ bay qua những suy nghĩ lạ lùng/ bay qua viễn tượng mặt trời bò cạp/ Và nỗi khắc khoải họa hình hoa cỏ mông lung. Minh phân vân, Minh mông lung nhưng Minh cũng tỉnh táo đến lạnh lùng!

Trong cái phân vân tôi tìm ban mai ngược về ánh sáng/ phiên bản con đường khuất tích ngày đông/ tôi là loài sâu ngủ vùi rơm rạ/ mơ những hoa văn trên mặt trống đồng, Minh đã tìm thấy chân dung mình. Chân dung một người luôn luôn bước vào những biên độ tưởng là phi logic nhưng nó hoàn toàn khai mở về ý thức tự thân của những khao khát cơn đau vỡ tràn ánh sáng/ con ngựa sóng xanh ồn ã tìm về... câu thơ lửa nhiệt đới mùa màng...như dòng sông tìm mình trong biển lớn/ những câu thơ dựng sáng một chân trời! Minh mãi mãi là kẻ phân vân khi biết mình là người vì chính phân vân là một biểu hiện tồn tại và chuyển động của con người biết nhìn về quá khứ, nhớ về tương lai để định hình mình trong từng khoảnh khắc hiện hữu. Chỉ hy vọng một mong ước bè bạn, vào những tập thơ sau tôi sẽ không bao giờ nhìn thấy bóng dáng phân vân của người khác thấp thoáng trong Minh như “sổ ô mừng mứng mắt hắt nghiêng đêm”. Câu thơ lạ nhưng lại quá quen của một ai đó đã phân vân trước Minh. Có lẽ, trong cuộc đời mình, Julian Jachlin sẽ không bao giờ quên lần biểu diễn ở Hà Nội. Và tôi không bao giờ quên những cái dang dở tuyệt vời trong đêm hòa nhạc Hennessy ấy. Vì nó, từ Hà Nội tôi nhớ Sài Gòn, nhớ Minh và thơ Minh. Cầu cho Minh thêm nhiều cơ hội dang dở tuyệt vời để suốt đời được phân vân về mình mà vươn dài qua tất cả, kể cả cái chết cũng sẽ biến thành sự phục sinh khi thơ chiến thắng trên mọi nẻo đường sáng tạo.

Hà Nội 15/4/200
V.C.H  
(141/11-00)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Có nhiều khi trong đời, “trôi theo cõi lòng cùng lang thang” như Thiền sư Saigyo (Nhật Bản), bất chợt thèm một ánh lửa, một vầng trăng. Soi qua hương đêm, soi qua dòng văn, soi qua từng địa chỉ... những ánh lửa nhỏ nhoi sẽ tổng hợp và trình diện hết thảy những vô biên của thế cuộc, lòng người. “Trong mắt tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã là ánh lửa ấy, địa chỉ ấy.

  • 1. Kawabata Yasunari (1899 -1972) là một trong những nhà văn làm nên diện mạo của văn học hiện đại Nhật Bản. Ông được trao tặng giải Nobel năm 1968 (ba tác phẩm của Kawabata được giới thiệu với Viện Hoàng gia Thụy Điển để xét tặng giải thưởng là Xứ Tuyết, Ngàn cách hạc và Cố đô).

  • (Thơ Đỗ Quý Bông - Nxb Văn học, 2000)Đỗ Quý Bông chinh phục bạn hữu bằng hai câu lục bát này:Đêm ngâu lành lạnh sang canhTrở mình nghe bưởi động cành gạt mưa.

  • Thạch Quỳ là nhà thơ rất nhạy bén trong việc nắm bắt thông tin và chóng vánh tìm ra ngay bản chất đối tượng. Anh làm thơ hoàn toàn bằng mẫn cảm thiên phú. Thơ Thạch Quỳ là thứ thơ có phần nhỉnh hơn mọi lý thuyết về thơ.

  • Kỷ niệm 50 năm ngày mất nhà văn Nam Cao (30.11.1951-30.11.2001)

  • Có một con người đang ở vào cái tuổi dường như muốn giũ sạch nợ nần vay trả, trả vay, dường như chẳng bận lòng chút nào bởi những lợi danh ồn ào phiền muộn. Đó là nói theo cái nghĩa nhận dạng thông thường, tưởng như thế, nơi một con người đã qua "bát thập". Nhưng với nhà thơ Trinh Đường, nhìn như thế e tiêu cực, e sẽ làm ông giận dỗi: "Ta có sá gì đi với ở".

  • Nhà thơ Trinh Đường đã từ trần hồi 15g10’ ngày 28.9.2001 tại Hà Nội, thọ 85 tuổi. Lễ an táng nhà thơ đã được tổ chức trọng thể tại quê nhà xã Đại Lộc huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng , theo nguyện vọng của nhà thơ trước khi nhắm mắt.

  • Phan Ngọc, như tôi biết, là người xuất thân trong gia đình Nho giáo, đã từng làm nghề dạy học, từ năm 1958 chuyển sang dịch sách, là người giỏi nhiều ngoại ngữ. Hiện nay, ông đang là chuyên viên cao cấp của Viện Đông Nam Á (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia).

  • Có những con người mà ta chỉ gặp một đôi lần trong đời để rồi mãi nhớ, mãi ám ảnh về họ. Với tôi, nhà văn Trần Dần là người như vậy.

  • Trước tình hình số tập thơ được xuất bản với tốc độ chóng mặt, người ta bỗng nhiên cảm thấy e ngại mỗi khi cầm một tập thơ trên tay. E ngại, không phải vì người ta sợ nhọc sức; mà e ngại vì người ta nghĩ rằng sẽ phải đọc một tập thơ dở! Cảm giác ấy xem ra thật là bất công, nhưng thật tình nó quả là như vậy.

  • Những năm từ 1950 khi học ở trường trung học Khải Định (Quốc học Huế), tôi đã đọc một số bài thơ của Dao Ca đăng trên một số tờ báo như Đời mới, Nhân loại, Mới, Thẩm mỹ...

  • Tôi đến tìm ông vào một buổi sáng đầu đông, trong căn nhà ngập tràn bóng tre và bóng lá. Nếu không quen ắt hẳn tôi đã khá ngỡ ngàng bởi giữa phồn hoa đô hội lại có một khu vườn xanh tươi đến vậy!.

  • LTS: Rạng sáng ngày 11-7-2001, Toà soạn nhận được tin anh Đoàn Thương Hải - hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, sau một cơn đột quỵ, mặc dù đã được gia đình, bạn bè và các thầy thuốc Bệnh viên Trung ương Huế tận tình cứu chữa nhưng không qua khỏi, đã rời bỏ chúng ta an nhiên về bên kia thế giới!Tạp chí Sông Hương - Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế xin có lời chia buồn sâu sắc tới gia quyến nhà văn.Sông Hương số này xin giới thiệu hai bài thơ cuối cùng của anh được rút ra từ tập thơ chép tay lưu giữ tại gia đình.TCSH

  • Thơ Đặng Huy Giang xuất hiện trên thi đàn đã nhiều năm nay; song thật sự gây ấn tượng với bạn đọc phải kể đến một vài chùm thơ mà báo Văn nghệ đăng tải trên trang thơ dự thi 1998 - 2000; đặc biệt sau đó anh cho ra mắt bạn đọc hai tập thơ một lúc: Trên mặt đất và Qua cửa.

  • Có lẽ với phần lớn không gian thơ Phan Trung Thành, làm thơ là trò chuyện ân tình với những bóng dáng cũ, thuộc về quê nhà.

  • Trong bài viết điểm lại văn học năm 2000, sự kiện và bình luận, tôi có nêu hai tác giả trẻ, cùng là nữ, cùng có tác phẩm đáng chú ý trong năm, một người tập truyện, một người tập thơ. Người thơ là Vi Thùy Linh.

  • (Đọc “Gặp lại tuổi hai mươi”(*) của Kiều Anh Hương)Ngay bài thơ in đầu tập “Vùng trời thánh thiện” có hai câu đã làm tôi giật mình, làm tôi choáng ngợp:            “Những lo toan năm tháng đời thường            Như tấm áo chật choàng lên khát vọng”

  • đầu tháng 4 năm ngoái, sau khi tuần báo “Văn nghệ” của Hội Nhà văn Việt Nam đăng truyện ngắn dự thi “Quả đồng chùy tóc bện” của Trần Hạ Tháp - một bút danh “mới toanh” trên văn đàn, tôi ghé tòa soạn “Sông Hương” hỏi nhà văn Hà Khánh Linh:- Chị biết Trần Hạ Tháp là ai không? Tác giả chắc là người Huế...

  • Trương Văn Hiến có sở học phi thường và mang trong người một hoài bão lớn lao: an bang tế thế bình thiên hạ.

  • (Qua “Sau tách cà phê” của Nguyễn Trác, Nhà Xuất bản Hội Nhà văn, Hà Nội, 2000.)1- Sau năm năm từ “Chiếc thuyền đêm” (năm 1995), hình như  “đến hẹn lại lên”, nhà thơ Nguyễn Trác lại ra mắt bạn đọc tập “Sau tách cà phê”.