Nguyễn Du với Phú Xuân

18:19 15/01/2016

VƯƠNG TRỌNG

Thật khó xác định chính xác thời gian Nguyễn Du ở Phú Xuân, nhưng trước khi ra làm quan dưới triều Gia Long, Nguyễn Du chỉ đến Phú Xuân một lần vào năm 1793, khi nhà thơ vào thăm người anh là Nguyễn Nễ đang coi văn thư ở Cơ mật viện, điều này chúng ta biết được từ bài thơ của Nguyễn Nễ nhan đề “Tống Tố Như đệ tự Phú Xuân kinh Bắc thành hoàn” (Tiễn em trai Tố Như từ Phú Xuân trở về Bắc).

Ảnh: internet

Khi mới ra làm quan dưới triều Gia Long, có khả năng Nguyễn Du cũng chưa có dịp vào Phú Xuân. Gia phả dòng họ ghi: “Khi Gia Long ra Nghệ An, ông đón xe yết kiến và được đem thủ hạ đi theo ra Bắc”. Nguyễn Du được nhà vua rất ưu ái, bổ ngay làm tri huyện Phù Dung (Khoái Châu) và chỉ ba tháng sau được tăng chức Tri phủ Thường Tín ngay trong năm 1802 và cuối năm 1803, ông còn được cử đi tiếp sứ nhà Thanh ở trấn Nam Quan, nghĩa là ông chỉ ở các tỉnh miền bắc và cực bắc, rất xa Phú Xuân.

Năm 1804, khi đang làm Tri phủ Thường Tín, Nguyễn Du cáo bệnh về quê mấy tháng, rồi sau đó được điều vào Phú Xuân, để đầu năm 1805 thăng “Đông các học sĩ”. Nguyễn Du gắn bó với Phú Xuân kể từ cái mốc này.

Trong thơ chữ Hán, Nguyễn Du nói khá rõ con đường từ quê nhà vào Phú Xuân làm quan. Mặc dù bài thơ không ghi ngày tháng, nhưng rất nhiều khả năng chuyện này xẩy ra vào năm 1804, sau thời gian cáo bệnh nghỉ ở quê nhà. Chuyến đi này thật vất vả, buổi sáng khởi hành thật sớm, qua núi Phượng Hoàng còn màn đêm mịt mùng, nghỉ lại nơi hoang dã cùng bác tiều phu… Từ núi Phượng Hoàng của quê nhà, không biết đi bao ngày mới đến Thùy Liên của Quảng Bình, cỏ hoang mang sương sớm quật vào mặt, cho người thêm hốc hác. Một điều đáng nói là lúc này Nguyễn Du rất nhớ nhà, gặp một người bạn vào chầu vua rồi được vua cho về, ông chỉ mong thầm mình được như thế! Nhưng rồi ông cũng tới Phú Xuân và giữ chức Đông các học sĩ như ta đã biết. Như vậy Nguyễn Du ở Phú Xuân từ cuối năm 1804 hoặc đầu năm 1805 cho đến khi tạ thế tháng 9 năm 1820. Nhưng trong khoảng ấy, ông có những thời gian xa Phú Xuân như sau: 8 tháng xin tạm nghỉ về quê năm 1808. Ba năm làm Cai bạ Quảng Bình từ 1809 - 1813; 14 tháng đi sứ từ 2/1813 đến 4/1814; Về quê nghỉ 4 tháng từ tháng 8 đến tháng 12 năm 1814. Tính ra tổng thời gian ông ở Phú xuân chừng 10 năm. Trong 10 năm đó ông được thăng chức ba lần: Đông các học sĩ (1805), Cần chánh điện học sĩ (1813) và Hữu Tham tri bộ Lễ (1815). Thế nhưng Nguyễn Du vẫn cho mình không có dáng công hầu, luôn buồn nhớ quê, chỉ muốn về:

Đỗ vũ nhất thanh xuân khứ hĩ
Hồn hề, quy lai, bi cố hương
(Ngẫu thư công quán bích - Cuốc kêu, xuân đã hết rồi/ Quê xa buồn nhớ, hồn ơi, hãy về).

Có khi gặp một ẩn sĩ sống an nhàn, ông cũng muốn bỏ quan về sống đời thường:

Ngã dục quải quan tòng thử thệ
Dữ ông thọ tuế lạc cầm tôn
(Tặng nhân - Ta mong treo mũ từ quan/ Tuổi già vui thú rượu đàn cùng ông).

Trong ông việc có khi bị bề trên quở trách, bọn thuộc hạ thấy vậy cũng vênh vang coi thường, ông chán nản nghĩ đến cái chết với điều an ủi là con cái đông, mình có chết cũng không sao!

Không biết thời ấy với các chức quan như ông được hưởng tiền lương thế nào, nhưng gia đình ông sống cảnh nghèo khó, đàn con đói ăn mặt xanh như rau, còn ông sống cô đơn trong bệnh tật:

Thập khẩu đền cơ Hoành Lĩnh bắc
Nhất thân ngọa bệnh đế thành đông
(Ngẫu đề - Mười con kêu đói non Hồng/ Một thân nằm bệnh phía đông đế thành)…

Nhiều thắng cảnh của Phú Xuân đã đi vào thơ ông và có những câu thơ tuyệt tác như tả cảnh chùa Thiên Thai:

Cổ tự thu mai hoàng diệp lý
Tiên triều tăng lão bạch vân trung
(Vọng Thiên Thai tự - Vàng thu chùa cổ lá vùi/ Vị sự triều trước già đời trong mây).

Nhưng trong thơ ông, cảnh đẹp của Phú Xuân thường gắn với nỗi buồn quá vãng, nỗi buồn vì nghĩ về quê nhà:

Hương Giang nhất phiến nguyệt
Kim cổ hứa đa sầu
Vãng sự bi thanh trủng
Tân thu đáo bạch đầu
Hữu thân đồ dịch dịch
Vô bệnh cố câu câu
Hồi thủ Lam Giang phố
Nhàn tâm tạ bạch âu.
                     (Thu chí)

Dịch thơ:

Hương giang trăng một mảnh
Kim cổ gợi bao sầu

Chuyện cũ buồn xanh mộ
Thu mới đến bạc đầu

Có thân nên vất vả  
Không bệnh, lưng uốn câu
Bãi sông Lam, ngoái lại
Lòng nhàn thẹn chim âu.


Ngày 16 tháng 9 năm 1820, ông mất ở Phú Xuân. Theo nhà thơ Thanh Tịnh, vua Minh Mạng đã làm đôi câu đối:

Nhất đại tài hoa, vi sứ, vi quan sinh bất thiểm
Bách niên sự nghiệp, tại gia, tại quốc tử do vinh
(Một đời tài hoa, đi sứ, làm quan sống chẳng thẹn/ Trăm năm sự nghiệp, trong nhà, ngoài nước chết còn vinh).

Nhà thơ Thanh Tịnh còn lưu ý rằng, phía dưới câu đối có đề mấy chữ “Minh Mạng hoàng đế trang tặng”, và nhấn mạnh “trang tặng” chứ không phải “ban tặng”, để nói nhà vua yêu quý và tôn trọng Đại thi hào đến mức nào!

Bốn năm sau, năm 1824, con cháu vào đưa hài cốt ông về cải táng trong vườn nhà ở Tiên Điền. Thế là ông vĩnh viễn xa Phú Xuân, còn các tác phẩm của ông, đặc biệt là Truyện Kiều thì còn lưu lại Phú Xuân dưới nhiều dạng, được gọi là “bản Kinh” mà giới sưu tầm văn bản vẫn quen dùng.

Cùng với Hà Tĩnh, Thăng Long, Thái Bình…, Phú Xuân gắn bó mật thiết với Đại thi hào Nguyễn Du. Giá như tổ chức được cuộc hội thảo “Nguyễn Du với Phú Xuân” thì tin rằng sẽ thu góp được thêm nhiều tư liệu mới!

Tháng 11 năm 2015
V.T
(SH323/01-16)





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NHỤY NGUYÊN

    Truyện ngắn của Nguyên Quân trong Vòng tay tượng trắng (Nxb. Văn Học, 2006) khá mộc mạc ở cả đề tài và lối viết, nhưng cũng nhờ cái mộc mạc đó đã hút được nguồn nguồn mạch sống.

  • QUÁCH GIAOMùa Xuân Đinh Hợi đến với tôi thật lặng lẽ. Cây Thiết Mộc Lan nơi đầu ngõ năm nay ra hoa muộn song lại tàn trước Tết. Hoa trong sân nhà chỉ lưa thưa vài nụ Bát Tiên. Hai chậu mai không buồn đâm hoa trổ nụ. Đành thưởng xuân bằng thơ văn của bằng hữu.

  • NHỤY NGUYÊN

    (Đọc Ngày rất dài - Thơ Đoàn Mạnh Phương, Nxb Hội Nhà văn, 2007)

  • TRẦN THÙY MAI(Đọc Đức Phật, nàng Savitri và tôi, tiểu thuyết của Hồ Anh Thái, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2007)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ(Nhân đọc “Nhà văn Việt Nam hiện đại” - Hội Nhà văn Việt Nam xuất bản, 5-2007)Trong dịp kỷ niệm 50 năm thành lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957-2007), Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (HNVVN) đã xuất bản công trình quan trọng “Nhà văn Việt Nam hiện đại” (NVVNHĐ), dày 1200 trang khổ lớn, tập hợp chân dung trên một ngàn nhà văn các thế hệ, từ các cụ Ngô Tất Tố, Phan Khôi… cho đến lớp nhà văn vừa được kết nạp cuối năm 2006 như Nguyễn Danh Lam, Nguyễn Vĩnh Tiến, Phan Huyền Thư…

  • BÍCH THU(Đọc Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức, Nxb Văn học, 2007)Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức là cuốn sách tập hợp những ghi chép và nghiên cứu về nhà văn Tô Hoài, một tác gia lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Đây là cuốn sách đầu tiên kết hợp hai phương diện ghi chép và nghiên cứu, góp một cách tiếp cận đa chiều và cập nhật về con người và sự nghiệp của nhà văn.

  • NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Từ đá vắt ra  của Trần Sĩ Tuấn)Chiếc áo choàng mà tác giả nói ở đây là chiếc áo blouse trắng của người thầy thuốc. Tác giả là bác sĩ. Chắc anh đang làm thơ về nghề nghiệp của mình.Trong đời có bốn bậc thầy được nhân dân ngưỡng mộ: Thầy thuốc chữa bệnh, thầy giáo dạy học, thầy cúng, thầy phù thủy cùng dân tìm cõi tâm linh.

  • HẢI TRUNGKhoa tuyên bố với tôi: mình viết truyện ngắn đây, không phải để thành nhà gì cả, cốt để cho mấy đứa con làm gương mà học tập. Tôi ngờ ngợ, cứ nghĩ là anh nói vui vì chơi với đám bạn văn chương mà bốc đồng buột miệng. Ai ngờ anh viết thật, viết say sưa, viết để quên và để nhớ.

  • VĂN CẦM HẢIVề phía biển, là thường nhân di du với cõi minh mang nhưng Nguyễn Thanh Tú, biển là nơi anh được vời vợi nỗi cô đơn của một loài thân phận có tên là thơ!

  • MAI VĂN HOANHồn đầy hoa cúc dại là tập thơ thứ bảy của Lâm Thị Mỹ Dạ. Thơ Dạ đã có rất nhiều người bàn luận, bình phẩm. Mỗi người có một cách cảm nhận riêng. Bài viết của Ngô Minh mới đây giúp cho độc giả biết thêm những uẩn khúc, những góc khuất trong cuộc đời của Dạ.

  • DUNG THÙYĐây là tập thơ đầu tay của tác giả Nguyễn Thị Anh Đào do NXB Đà Nẵng ấn hành với cảm xúc tròn đầy và một tâm hồn nồng ấm. Là một cây bút trẻ đang độ sung sức, chị có nhiều thơ và truyện ngắn đăng trên các báo, tạp chí và Ngày không trở lại gói ghém những niềm riêng.

  • LÝ HẠNH(Đọc Thơ tặng của nhà thơ Ngô Minh)Ngô Minh là nhà thơ, nhà văn, nhà báo, vì thế mà cố nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng đã từng nói về ông một cách trìu mến: “Ba con người trong một con người thâm thấp”. Có một điều đặc biệt, chính con người thâm thấp ấy đã phân thân thành 3 con người khác nhau, mà con người nào cũng “ra hồn ra vía” cả.

  • FRANCOIS BUSNELKiran Desai là nữ văn sĩ người Ấn Độ. Cô sinh năm 1971 tại Dehli. Là con gái của nữ tiểu thuyết gia Anita Desai. Kiran Desai lớn lên và học tiểu học ở Dehli đến năm 14 tuổi. Sau đó, cô cùng mẹ sang Anh Quốc, rồi Hoa Kỳ, học trung học ở tiểu bang Massachussettes. Cô theo học lớp viết văn ở Virginie và sau đó học Đại học Columbia ở NewYork.

  • TRẦN HUYỀN SÂM Một mùa đông ở Stockholm của Agneta Pleijel là một hiện tượng nghệ thuật độc đáo, tiêu biểu cho tính chất “đả phá thể loại” của tiểu thuyết hiện nay. Tác phẩm dung nạp nhiều đặc tính của tiểu thuyết Châu Âu hậu hiện đại: Phép giản lược tối thiểu, lối kể chuyện tung hứng, thủ pháp lạ hoá hình thức văn bản tác phẩm, đặc biệt là kiểu tự thuật “đánh tráo” chủ thể trần thuật.

  • HỒ THẾ HÀSerenade của Peter Kihlgard là một truyện ngắn có cấu trúc hiện đại. Trước hết là ở nghệ thuật ngôn từ và điểm nhìn văn bản.

  • BỬU NAM Hình thức lạ lùng gây tò mòTrước hết về mặt hình thức, tiểu thuyết khêu gợi sự tò mò ở người đọc với cách bố trí các tiêu đề in hoa, dày đặc đến hàng trăm suốt tác phẩm, xen lẫn các tiêu đề bằng tiếng Anh “I have been calling for more than an hour... But It's me”...

  • NHỤY NGUYÊN

    Sự đặc biệt của dòng thơ hậu chiến là luôn luôn khuấy động trong cái mênh mông vô chừng tưởng đã lắng xuống những vỉa quặng lấp lánh sau 30 năm đằng đẵng.

  • PHẠM QUÝ VINH Sau khi lên nắm chính quyền ở miền Nam Việt Nam, Ngô Đình Diệm đã thi hành một chính sách đối nội hết sức phản động. Chính quyền Ngô Đình Diệm đã sử dụng nhiều thủ đoạn nham hiểm nhằm khủng bố những người kháng chiến, những người yêu nước.

  • VŨ NGỌC KHÁNHLTS: Ngày 17-11-2007, tại Văn miếu Quốc tử giám Hà Nội, Trung tâm Minh Triết Việt đã tổ chức Lễ tưởng niệm các nhà giáo Đông Kinh Nghĩa Thục. Giới trí thức học thuật của Hà Nội, nhiều thanh niên, sinh viên và hậu duệ của một số nhà Đông Kinh Nghĩa Thục (ĐKNT) đã đến dự.

  • MAI VĂN HOAN     Nhà xuất bản Văn học vừa ấn hành tập thơ Cõi lặng của Nguyễn Khoa Điềm. Cõi lặng gồm 56 bài, đa phần được viết sau khi tác giả nghỉ hưu. Điều đó cũng là lẽ thường. Các nhà thơ như Nguyễn Trãi, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến... đều như thế cả. Khi đương chức họ bận trăm công nghìn việc. Phải đến lúc nghỉ hưu họ mới sống thoải mái hơn, dành nhiều thời gian cho thơ hơn. Đọc Cõi lặng ta mới thấu hiểu tâm trạng của nhà thơ, mới nghe được nhịp đập của một trái tim nhiều trăn trở.