Bìa cuốn "Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong truyện Kiều" của GS Phan Ngọc- Ảnh: ngoisao.net
- Thứ nhất, những ưu điểm hay những khuyết điểm mà người ta cấp cho Nguyễn Du đều không phải của riêng Nguyễn Du, mà của rất nhiều người. Nói rằng Nguyễn Du đề cao quyền sống con người, ca ngợi tình yêu… thì những điều đó hầu hết các nhà văn thời Lê Mạt - Nguyễn Sơ đều làm được. Như vậy là không nêu được những cống hiến chỉ riêng một mình Nguyễn Du làm được trong văn học cổ, và đó mới là tiêu chuẩn thực sự để đánh giá một thiên tài. - Thứ hai, Nguyễn Du trở thành một trung tâm tranh cãi, vì chỉ căn cứ vào cảm thụ thẩm mỹ của cá nhân người nghiên cứu, cho nên người này bảo Nguyễn Du là hiện thực, người nọ bảo là lãng mạn, người thứ ba bảo là ước lệ. Rồi người thì bảo Kiều là hiếu, người bảo Kiều là dâm… Cuộc tranh cãi không bao giờ có thể chấm dứt được. Chúng tôi có chuẩn bị một công trình nhan đề là “Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều ” để tìm cho ra những cống hiến mà chỉ một mình Nguyễn Du làm được đối với văn học cổ. Dưới đây chúng tôi chỉ nói đến một điểm trong công trình này: Nguyễn Du, nhà phân tích tâm lý. Mục đích chúng tôi là nêu lên những thao tác kỹ thuật của nhà thơ trong đó không ai làm, để chứng minh những điều mới mẻ của nhà thơ với tính cách một người lao động nghệ thuật thực sự mẫu mực. Để làm điều đó, chúng tôi đối lập Truyện Kiều với Kim Vân Kiều truyện để tìm ra những nét bất biến, có trong Truyện Kiều mà không có trong Kim Vân Kiều truyện, rồi đối lập những nét ấy với tiểu thuyết Trung Quốc, truyện nôm Việt Nam, thời đại của tác giả và truyền thống văn học Trung Quốc và Việt Nam để tìm tiếng nói mới về nghệ thuật mà tác giả đưa lại, làm thành niềm tự hào của văn học dân tộc. Cái mới lạ của Truyện Kiều về mặt nghệ thuật là: Truyện Kiều là một tiểu thuyết phân tích tâm lý, và Nguyễn Du là một trong những nhà văn đầu tiên trên thế giới đã dốc toàn bộ thiên tài của mình vào việc xây dựng một thể loại tiểu thuyết chưa có ở Việt Nam và Trung Quốc đã đành, mà ngay cả ở Châu Âu, trước ông cũng chưa ai đạt được một thành công to lớn như vậy, loại tiểu thuyết phân tích tâm lý. Vì phạm vi bài báo ngắn ngủi, chúng tôi chỉ có thể thu hẹp vào một số thao tác. 2- Thứ nhất con người cô độc ra đời Trong Truyện Kiều, các nhân vật làm một chuyện chướng tai gai mắt đối với truyền thống văn học cổ là họ ngồi không. Kiều ngồi một mình 17 đoạn, Kim Trọng 7 đoạn, Thúc Sinh 2 đoạn, Hoạn Thư, Mã Giám Sinh mỗi người một đoạn tổng cộng là 474 câu thơ chiếm 15,5 % tác phẩm. Con người trong tiểu thuyết cũ, dù đó là Tam quốc chí diễn nghĩa, Thủy Hử, cho đến Thạch Sanh… đều là những con người hành động, mưu mô, tính toán, không bao giờ ngồi không. Nếu rỗi rãi thì họ làm thơ: Trong Kim Vân Kiều truyện họ làm đến 89 bài thơ! Tiểu thuyết cũ chạy theo hành động. Với Truyện Kiều, đối tượng của tiểu thuyết thay đổi. Nó từ bỏ hành động, sự việc bên ngoài để đi vào nội tâm con người. Đây là một bước nhảy vọt của nghệ thuật. Và khi làm như vậy, toàn bộ hệ thống thao tác cũ bị đảo lộn. Những thao tác mới ra đời. Thứ nhất là thời gian nghệ thuật ra đời với tính cách một phạm trù nghệ thuật. Trước Truyện Kiều, tiểu thuyết chỉ sống trong hiện tại. Với Truyện Kiều, thời gian nghệ thuật xuất hiện. Nó gồm thời gian khách quan đối lập với thời gian nội tâm. Thời gian nội tâm lại tách ra làm ba. Con người ngồi một mình đối chiếu hiện tại với quá khứ và lo lắng cho tương lai. Một sự kiện mà trong tiểu thuyết cũ chỉ nhắc đến một lần thì ở đây nhắc đến bao nhiêu lần cũng được. Thí dụ cuộc thề thốt giữa hai người láy đi láy lại đến 11 lần trong tác phẩm. Tiểu thuyết từ bỏ kiến trúc đơn tuyến để đi vào kiến trúc đa tuyến. 3- Con người cô độc ra đời thì thứ hai thiên nhiên cũng ra đời với tư cách một phạm trù nghệ thuật, với ngôn ngữ của nó. Trong Kiều có 222 câu tả thiên nhiên. Nhưng thiên nhiên ở đây có một chức năng giao tiếp riêng. Ngôn ngữ của con người vốn gồm những từ, chữ câu tức là những vật khô cứng chắp lại với nhau cho nên bất lực không thể diễn tả được sự hòa hợp giữa hai tâm hồn. Chính vì vậy trong Kiều từ đoạn đi thanh minh đến khi Kim Trọng dọn sang nhà trọ có 244 câu thì đã có 60 tả thiên nhiên. Sở dĩ như vậy là vì tâm trạng hòa hợp của đôi trai gái trong mối tình đầu là trái ngược với tính đứt đoạn (discontinuité) của ngôn ngữ con người. Trái lại, khi Kiều được phong làm phu nhân đến khi Từ Hải chết, bị ép lấy Thổ quan dài 340 nhưng không có một câu nói đến thiên nhiên cũng như từ khi Kiều gặp lại Kim Trọng đến lúc chấm dứt câu chuyện, thiên nhiên cũng vắng mặt. Cũng cần phải nhắc rằng thiên nhiên không hề tồn tại trong Kim Vân Kiều truyện cũng như trong tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc. Đó là vì tiểu thuyết xưa chạy theo sự việc, mưu mô, hành động. Đoạn miêu tả thiên nhiên duy nhất đáng chú ý trong tiểu thuyết Trung Hoa là đoạn Tam cố thảo lư trong Tam Quốc Chí, nhưng thiên nhiên ở đây rất công thức. Chức năng giao tiếp thứ hai là thiên nhiên xuất hiện khi con người cô độc: Kiều ở lầu Ngưng Bích, trước sông Tiền Đường, Kim Trọng khi trở lại vườn Thúy… Thiên nhiên lúc này đóng vai phản ảnh tâm trạng và phục vụ cho sự phân tích tâm lý. 4- Trong tiểu thuyết cổ không có ngôn ngữ tác giả. Tác giả chỉ xuất hiện để giới thiệu câu chuyện rồi biến mất để cho hành động tự nó diễn biến. Trong Kiều thì khác. Ngôn ngữ tác giả chiếm tất cả. Chỉ riêng những câu của tác giả dùng để phân tích nội tâm của nhân vật đã chiếm 775 câu thơ tức là 24,2 phần trăm tác phẩm, một tỷ lệ phải nói là khủng khiếp. Một thí dụ chứng tỏ cái tài phân tích tâm lý vô song, xứng đáng đứng bên cạnh Tôn-xtôi. Đó là đoạn Thúc Sinh về nhà Hoạn Thư gặp lại Thúy Kiều. Đoạn này dài 80 câu (1805-1884), chỉ có 11 câu đối thoại, còn toàn là ngôn ngữ tác giả để phân tích nội tâm nhân vật. Kiều bước ra lúng túng (một bước một dừng). Từ xa nhìn thấy Thúc Sinh, nàng hoảng hốt không tin vào đôi mắt của mình (Phải rằng nắng quáng đèn lòa. Rõ ràng ngồi đó chẳng là Thúc Sinh?). Nhưng sự thực là sự thực. Nàng vỡ nhẽ nhận thức ngay tình trạng nguy khốn của mình. (Thôi thôi đã mắc vào vành chẳng sai). Tuy bên ngoài nàng câm lặng nhưng cơn căm giận bốc lên (Người đâu mà lại có người tinh ma!) Nhưng nàng thấy rõ tình trạng lép vế của mình (Ăn làm sao, nói làm sao bây giờ?) Và cứ thế tâm lý của Thúc Sinh, của Hoạn Thư đều được phân tích. Tác giả không những phân tích nội tâm nhân vật mà còn phân tích cả nội tâm của mình. Và có nhiều lúc tác giả nhảy vào giữa câu chuyện để quát mắng, chửi bới. Đây cũng là thủ pháp phiếm luận trữ tình mà sau này ta bắt gặp trong mọi quyển tiểu thuyết của Tôn-xtôi. 5- Thứ tư, hành động bị rút xuống tối thiểu, trong khi nó là tất cả trong tiểu thuyết cổ, trong Kiều chỉ có 575 câu tự sự (17,5 phần trăm tác phẩm). Không có ai tàn nhẫn đối với hành động như Nguyễn Du. Nguyễn Du gạt bỏ mưu mô: mưu mô Thúc Sinh để cứu Thúy Kiều từ nhà Tú Bà trong Kim Vân Kiều truyện chiếm trên một phần hai mươi tác phẩm thì ở đây rút lại 6 câu (2.455-2.461). Ông gạt bỏ mọi chi tiết, dù chi tiết ấy hấp dẫn đến đâu. Câu “Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề” là tương ứng với 1.700 chữ trong bản dịch, câu “Thề sao thì lại cứ sao gia hình” là tương ứng với 1.850 chữ trong bản dịch. Nguyễn Du tìm tâm trạng và phanh phui tâm trạng. Chính vì vậy ngay trong phần tự sự, cái quan trọng đối với ông không phải là tự thân sự việc, mà sự việc ấy được đánh giá như thế nào. Chẳng hạn đoạn “Gia biến” ông ba lần khẳng định đây là một việc làm oan ức (tiếng oan dậy đất, rút ngược dây oan, oan này những muốn kêu trời). Ông chửi bới bọn sai nha, bọn này trở thành lũ đầu trâu mặt ngựa dưới địa ngục, mà hành động chỉ là “sạch sành sanh vét cho đầy túi tham”… Tất cả mọi sự phê phán như vậy đều không có trong Kim Vân Kiều truyện, vì một lẽ rất bình thường. Tiểu thuyết chương hồi chỉ nói đến sự việc một cách hoàn toàn khách quan không ngụ ý khen chê gì hết. Chưa hết ông đối lập sự việc này với sự việc kia để qua đó người đọc rút ra được những quan hệ mới mẻ. Đoạn trả ân báo oán là đối lập từng chữ một với các đoạn gia biến, Hoạn bà và Hoạn Thư trừng trị Kiều. Chính bằng phương pháp này mà Kiều tuy tự sự rất ít vẫn rành mạch lôi cuốn. Đây là phương pháp tự sự của tiểu thuyết hiện đại, trước kia không ai biết làm. 6- Quan trọng hơn nữa, Truyện Kiều là một tiểu thuyết phân tích tâm lý theo cái nghĩa hiện đại của từ này: con người bị phanh phui tàn nhẫn, hết kiệt, theo cái nghĩa hóa học của danh từ, không để lại một cái cặn nào hết, không chút nể nang nhân nhượng. Đồng thời tâm lý con người trải qua một quá trình phát triển biện chứng, nó không ngừng thay đổi, do những kinh nghiệm trải qua trong cuộc sống, do lứa tuổi đưa đến. Chúng tôi chỉ xin phân tích một đoạn, đoạn phanh phui tâm lý của Kiều trước khi khuyên Từ Hải đầu hàng (2.473 - 2.486). Thời Nguyễn Du chưa có danh từ chủ nghĩa cơ hội. Nhưng mặc dầu rất quý trọng Kiều, tác giả cũng không thể gượng nhẹ nhân vật mà phanh phui đến cùng tâm lý cơ hội của Kiều. Trước hết là ngu (thật dạ tin người), bị lừa bịp (nghe lời dễ xiêu) do chỗ tham lam vật chất (của nhiều, nói ngọt). Sau đó là ngại gian khổ (nghĩ mình mặt nước cánh bèo) cho nên định hy sinh cái hiện có (chịu tiếng vương thần) để mong được cái tưởng tượng (thênh thênh đường cái thanh vân hẹp gì). Cái viễn ảnh giả dối làm nàng mê mẩn, nàng tự lừa dối mình (Công tư vẹn cả hai bề), rồi vênh váo (nở nang mày mặt)…, nghĩ đến chức tước quyền lực mua được bằng đầu hàng (cũng ngôi mệnh phụ). Để trấn áp những ý nghĩ xấu xa nhơ bẩn này, nàng cuối cùng đưa ra cái đạo lý phong kiến mà nàng trước đó không bao giờ nghĩ đến (Trên vì nước, dưới vì nhà)… Cuối cùng đạo đức được đưa ra để bào chữa cho hành động phản bội. Phân tích như thế là chính xác, đúng khoa học, khách quan và tàn nhẫn đến cùng. Cách làm này không những ở Việt Nam, Trung Quốc không ai làm được, mà ngay cả ở Châu Âu, phải đợi đến Xtan-đan tức là sau 1830 mới có người làm được. Nguyễn Du phân tích con người tới điểm tới hạn, nhưng lại biết tìm ra cái biện chứng pháp của tâm hồn. Về điểm này chỉ có Tôn-xtôi mới sánh được. Nguyễn Du cắt nghĩa hành động đầu hàng của Kiều bằng cả một quá trình diễn biến. Kiều chính là người dại dột, nàng đã bị Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Bạc Hạnh lừa. Nàng sợ gian khổ, luôn luôn lo lắng, ta thấy rất rõ điều đó ngay khi nàng gặp Kim Trọng. Nàng tham, ta thấy nàng lấy vàng bạc của Hoạn Thư. Nàng ham quyền lực, ta thấy điều đó khi nàng dưới quyền Hoạn Thư và khi làm phu nhân. Tóm lại, con người biến đổi nhưng vẫn là chính nó. Con người ấy trước Kiều chưa có trong văn học Châu Á. 7- Con người trong văn học tiền Nguyễn Du là con người nhất phiến, họ có thể làm những điều khác trước như Tào Tháo làm khác khi là viên quan nhỏ và khi là thừa tướng nhà Hán, nhưng sự khác nhau này là do hoàn cảnh đưa đến không phải do sự phát triển của bản thân tính cách. Tính cách của họ không có quá trình. Với Nguyễn Du tính cách con người là một quá trình. Ta hãy phân tích tình yêu của Thúy Kiều thì thấy rất rõ, cái gọi là biện chứng pháp của tâm hồn, danh từ mà phê bình văn học dùng để gọi cách phân tích nội tâm của Tôn-xtôi và Đô-xtôi-ep-xki. Tình yêu của Kiều với Kim Trọng lúc đầu là tình yêu đầu tiên của cô gái ngây thơ. Kiều có đủ can đảm hy sinh mình cho cha mẹ, nhưng không có đủ can đảm thấy người yêu đau khổ. Sau này, khi thất thân với Mã Giám Sinh và bị Sở Khanh lừa dối, nàng có kinh nghiệm. Nàng nơm nớp lo sợ bị lừa dối. Cho nên tình yêu với Thúc Sinh hoàn toàn là sự tính toán không có yếu tố đắm say. Đến khi gặp Từ Hải, tình yêu thành sự thán phục. Sau này gặp lại Kim Trọng chỉ còn lại một chút nghĩa cũ càng: Còn tình đâu nữa là thù đấy thôi. Phân tích cái phép biện chứng của tâm hồn đến thế là cùng. Chính vì những nhân vật của Nguyễn Du đi theo cái biến chứng pháp của tâm hồn, phục tùng sự diễn biến nội tại của cái lô-gic phát triển của tính cách cho nên Nguyễn Du không chia nhân vật thành hai tuyến rõ rệt là nhân vật tích cực và nhân vật tiêu cực. Một người như Kiều, Kim Trọng đều có vô số những điều mà mới thoạt nhìn sẽ là mâu thuẫn. Hoạn Thư đáng yêu hay đáng ghét? Thúc Sinh dại gái, nhút nhát, nhưng chân thành. Từ Hải anh hùng nhưng hồ đồ, Kim Trọng chung thủy nhưng hiếu sắc. Đời sau hay dựa vào từng điểm một của tính cách để khen hay chê. Nhưng ai đã đi con đường biện chứng pháp của tâm hồn cũng đều dẫn tới tình trạng này: tác phẩm của họ là một thao trường tranh cãi không bao giờ dứt được. Có năm người như thế và các cuộc tranh cãi trên thế giới thường xoay chung quanh bốn người ấy. Trước Nguyễn Du có Sếch-xpia và Gơ-tơ, sau Nguyễn Du có Tôn-xtôi và Đô-xtôi-ep-xki. Việc khen hay chê là quyền mỗi người, nhưng khen và chê thì phải biết lý do nghệ thuật gì dẫn tới điều đó. 8- Những điều trên theo chúng tôi cũng đủ để chứng minh những đóng góp của Nguyễn Du mà ở Việt Nam trước tác giả không ai làm được. Nhưng trên thế giới vẫn có người làm được. Có điều Nguyễn Du là người duy nhất trong văn học loài người làm được là ở chỗ khác: Truyện Kiều là quyển bách khoa toàn thư của một vạn tâm hồn. Người ta bảo Sếch-xpia là tác giả của một vạn tâm hồn. Nhưng Sếch-xpia phải viết hàng chục vở kịch. Còn chỉ trong một tác phẩm ngắn có độc 3.254 câu thơ mà có đủ mọi tâm trạng thì đó là điều chỉ có cụ Nguyễn làm được. Ông làm được là vì dùng phương pháp phân tích tâm lý tàn nhẫn. Người xem thấy chính tâm lý của mình được phanh phui đến mức độ chính mình cũng không thấy rõ đến thế. Thế rồi nẩy sinh tình trạng nghiện, mỗi lúc trong lòng có băn khoăn thắc mắc lại giở Kiều ra xem, lại thấy tâm trạng của mình ngay lúc đó. Điều này tạo nên ở người đọc một sự bàng hoàng khiếp sợ tưởng chừng như tác phẩm này chứa đựng một sức mạnh gì huyền bí. Từ chỗ giở Kiều để tìm tâm trạng, người ta giở Kiều, bói Kiều để tin hiểu về tương lai. Hiện tượng bói Kiều nẩy sinh từ đó. Trong phạm vi một bài báo ngắn ngủi, chúng tôi chỉ trình bày sơ bộ một vài suy nghĩ, giúp bạn đọc thấy rằng: ở nước Việt Nam vào thế kỷ trước có một người lao động nghệ thuật thực sự mẫu mực… Và nghệ thuật, ngay cả nghệ thuật của các nhà văn thiên tài cũng không phải là nơi bất khả xâm phạm đối với khoa học thế kỷ XX. P.N. (11/1&2-85) |
ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.
LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.
TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.
PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!
NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.
NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.
HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.
NGUYỄN VĂN THUẤN (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.
PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.
THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.
HÀ ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.
LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.
BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.
HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.
LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.
TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.
HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.
NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.