Nguyễn Đình Thi - Một cánh én bay qua mùa xuân

16:01 22/05/2009
ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

Mưa tạnh gầy bóng núi
            Trời trong bóng trúc dài
                                     Nguyễn Trãi

N
guyễn Đình Thi, về tuổi đời, chẳng kém các nhà Thơ Mới bao xa, nhưng đã thuộc về một thế hệ khác. Bước chân vào thế kỷ XX, xã hội Việt Nam phát triển nước rút, khoảng cách giữa các thế hệ vì thế bị thu hẹp, đôi khi khá mỏng manh. Các lớp người văn nghệ cứ như những con sóng cắn đuôi nhau mà đi tới. Bởi vậy, tuy sống cùng một thời với các nhà Thơ Mới, nhưng Nguyễn Đình Thi khác với họ từ vốn sống, vốn tri thức đến thời điểm chín để có thể gia nhập vào một đỉnh sóng kế tiếp khác của thơ ca thế kỷ.

Thơ Mới khởi phát từ năm 1932 với một tinh thần cách mạng mạnh mẽ, và đến đầu những năm 40 đã đạt đến thiên đỉnh. Người ta có thể thấy sự toàn bích của nó ở Huy Cận, Vũ Hoàng Chương. Nhưng bất kỳ một trào lưu nghệ thuật nào đạt đến độ viên mãn đều đẻ ra những công thức mới, những sáo ngữ mới có khả năng cầm tù. Bích Khê, Đinh Hùng nổi loạn. Xuân Thu Nhã Tập chủ trương đổi mới cả lý thuyết lẫn thực hành. Nguyễn Xuân Sanh cách tân thơ bằng sự phá bỏ tính liên tục để thay thế vào đó tính gián đoạn:

Lẵng xuân
Bờ giũ trái xuân sa
Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà

Nhài đàn rót nguyệt vú đôi thơm
Tỳ bà sương cũ đựng rừng xa.

                        1942
                        (Buồn xưa)

Những từ ngữ được đặt cạnh nhau dường như không hề có liên hệ cú pháp hoặc ngữ nghĩa tạo cho câu thơ một âm hưởng lạ lùng, những hình ảnh đẹp một cách bí hiểm. Tuy nhiên, thơ Nguyễn Xuân Sanh như một nàng tiên chưa thoát hết lốt cá. Sự đều đặn về số chữ trong câu, số câu trong khổ, sự đơn điệu trong cách ngắt nhịp, nhất là sự chồng chất ngôn từ Hán Việt và hình ảnh sách vở đã cầm trói sáng tạo cất cánh. Xuân Thu Nhã Tập đổi mới không trọn, bởi lẽ sáng tác của họ không theo kịp lý thuyết, không tạo ra được sức thuyết phục cho lý thuyết. Hơn nữa, trong ba nhà thơ của họ, người có nội lực thi ca thật sự thì sáng tác lại chưa mới, còn người đổi mới thi pháp thực sự thì thi lực lại non. Thắng lợi của một trào lưu nghệ thuật đòi hỏi sự đồng bộ của nhiều nhân tố, mà có được sự đồng thời, sự cùng lúc đó thì đôi khi lại phụ thuộc vào ngẫu nhiên, hay còn gọi là số phận dân tộc.

Nguyễn Đình Thi sớm đến với Cách mạng tháng Tám. Cuộc cách mạng xã hội này đã kích thích trong ông một tinh thần cách mạng nghệ thuật. Bởi thế, thơ Nguyễn Đình Thi khác với Thơ Mới. Cái khác ấy ở ông có hai khởi nguyên: tâm hồn nhà thơ và hiện thực những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Hai dòng sống này cuốn vào nhau để cất lên một tiếng thơ mới.

Thơ Nguyễn Đình Thi là thơ trực tiếp. Trực tiếp vì thơ ông là tiếng nói đầu tiên “tóe lên ở nơi giao nhau giữa tâm hồn và ngoại vật”. Tiếng nồng thơm của đứa trẻ khi lần đầu tiên cất tiếng. Tiếng trinh nguyên của vũ trụ khi vừa thoát khỏi hỗn mang. Nhà thơ, theo Nguyễn Đình Thi, bao giờ cũng là con người đầu tiên, và nhìn sự vật, nói về sự vật bằng con mắt và tấm lòng của con người đầu tiên ấy. Đó là nhìn và nói bằng hình ảnh. Chỉ có hình ảnh mới có khả năng đập mạnh cùng một lúc vào cả đầu óc lẫn trái tim người đọc. Mỗi câu thơ là một sự lựa chọn tối ưu từ hàng nghìn phương án diễn ra trong tiềm thức của nhà thơ. Trong căn hầm sáng tạo tiền ngôn ngữ này vật liệu chọn lựa chỉ có thể là những hình ảnh. Và những ảnh hình thơ được chọn lựa đó ở Nguyễn Đình Thi xuất hiện khi “đụng chạm với hành động hàng ngày, tâm hồn tự nảy lên bao nhiêu hình ảnh như những tia lửa lóe lên khi búa đập vào sắt trên đe. Người làm thơ lựa những tia lửa ấy, kết nên một bó sáng”. Và, cũng nhờ trực tiếp như vậy, nên “hình ảnh còn tươi nguyên, bao giờ cũng mới mẻ, đột ngột, lạ lùng, mới tinh chưa có vết nhòe của thói quen, không bị dập khuôn vào những ý niệm trừu tượng định trước”.

Hình ảnh thơ Nguyễn Đình Thi không phải là ảnh chụp, bởi ông không làm thơ tả cảnh. Bởi ảnh chụp là nhìn sự vật từ bên ngoài, một thứ nhìn mà không thấy. Hình ảnh thơ là hình ảnh tâm trạng, một lối nhìn sự vật từ bên trong. Hình ảnh thơ Nguyễn Đình Thi cũng không phải so sánh ví von, là thứ dễ trở thành sáo ngữ. Thơ không phải là tư duy bằng hình ảnh. “Thơ là nơi tư tưởng, tình tự quấn quýt với hình ảnh như hồn với xác để tạo ra cái biết toàn thể, biết bằng tất cả tâm hồn, không phải chỉ biết bằng ý niệm, bằng trí thức”.

Muôn ngàn đêm hẹn nhau họp đêm nay
Bến Phan Lương nép bên rừng im lặng
Ngang đồi một tia vàng bay vút
Một vầng sao ngời muôn vàn sao
Tung lên hoa lửa
Bụi ngọc ngập trời
Rơi rơi trên đầu trên cổ
Trên ngón tay
Triệu triệu sao
Rừng Việt Bắc

Ngàn sao phơi phới đang bay
Lòng ta ngợp ánh vàng
Mắt không thấy nữa
Núi lại núi gọi thầm
Hà Nội dưới kia
Hà Nội ngước lên nhìn
Bốn phương nín thở
Những lề đường mòn cũ
Vàng nhộp ánh đèn
Hà Nội
(...)
Ngoài xa rì rào tiếng sóng
Sông Lô đang cuộn
Như dòng sông sao chảy giữa đêm mờ
Trôi tới chân trời xa vút
Ôm những bờ ngô bãi mía quê hương
Ta đứng đây bến thuyền đang nhộn nhịp
Những hàng quân áo lá tỏa bên bờ
Những rừng cây rung gió say sưa
Ngàn sao nghiêng nghiêng chào vẫy
Bãi cát thắp lên từng dòng đuốc lửa
Đò bơi tíu tít mặt sông
Người vẫn sang vô tận trong đêm
Rầm rập đi trong rừng tối
Ta bước đi giữa dòng người như chảy hội
.
                        1947
                        (Đêm mít tinh)

Trực tiếp và giàu hình ảnh, thơ Nguyễn Đình Thi là thơ cảm giác. Thơ lãng mạn chủ yếu là thơ truyền cảm. Thế giới thi ca của nó được đặt trên lưng của cái tôi tình cảm. Nó lấy tình cảm của nó ra để làm đối tượng kể tả. Mỗi bài thơ là một bể chứa năng lượng cảm xúc để truyền sang cho người đọc theo nguyên tắc bình thông nhau. Thơ Tượng trưng là thơ gợi cảm. Chủ nhân vương quốc thơ của nó, không chỉ là con người xã hội, con người hữu hình, mà chủ yếu là con người tâm linh, con người vô hình. Đi vào lãnh địa huyền bí ấy, người ta phải dùng đến biểu tượng, kể cả biểu tượng tôn giáo, dùng âm nhạc, một thứ âm nhạc ma mị, đều đều, thầm thĩ để dẫn dụ. Thơ Tượng trưng là một thế giới hoàn chỉnh, hài hòa, cô đúc, mơ hồ, có sức mời gọi. Thơ cảm giác là thơ của các giác quan, thơ của một con người đang căng mình ra trước một thế giới mới. “Tôi không thích, Nguyễn Đình Thi thổ lộ, những bài thơ nói ra tâm tình. Nó phải nói cảm xúc, cảm xúc là tai nghe, mắt thấy, mũi ngửi, tay sờ, cảm thế nào, nói thế ấy”. (ĐLT - nhấn). Thơ cảm giác gây phản ứng bởi nó không quen thuộc, đúng hơn chưa quen thuộc, với cái lỗ tai Thơ Mới quen gắn thơ với nhạc, một thứ luật lệ bên ngoài. Thơ cảm giác dựa vào những tiêu chí khác, những luật lệ bên trong, gần với bản chất của thơ hơn. Hình như hành trình đi tới của các thể loại văn học là hành trình gạt bỏ những dị chất để nó trở về với tinh chất, với thực chất của nó. Thơ, vì vậy, càng đi xa càng trở về với tiếng nói đầu tiên.

Thơ cảm giác Nguyễn Đình Thi, có thể nói, là thơ nhịp điệu. Nhịp điệu xưa nay vẫn là xương sống của thơ. Nhưng trước đây người ta chưa nhận thức ra điều đó, bởi thơ còn chưa tách hẳn người anh em sinh đôi của nó là nhạc: thơ cần tựa vào vần điệu. Nhịp điệu, vì thế, không phát huy được sức lực vốn có của nó. Nguyễn Đình Thi giải phóng thơ khỏi vần, khỏi câu thơ có cùng một số chữ, cùng một cách ngắt nhịp để đưa nhịp điệu lên bình diện thứ nhất và duy nhất của thơ.

Dừng chân trong mưa bay
ướt đầm mái tóc
Em em nhìn đi đâu
Môi em đôi mắt
Còn ôm đây
Nhìn em nữa
Phút giây

Chiều mờ gió hút
Em
Bóng nhỏ
Đường lầy

            1948
            (Không nói)

Gọi thơ Nguyễn Đình Thi là thơ không vần không chỉ là một cách gọi có tính lịch sử theo kiểu hoán dụ, mà rất tiêu biểu, rất trúng của “trường phái trọng vần” của Thơ Mới bây giờ đã trở thành thơ cũ. Tuy nhiên, cách gọi này, dù vô tình hay cố ý, dễ làm cho người đọc hiểu lầm Nguyễn Đình Thi có chủ ý từ đầu làm thơ không vần. Tức thi nhân là kẻ hình thức chủ nghĩa. Thực ra, Nguyễn Đình Thi làm thơ không vần là tuân theo quy luật nội tại của thơ, tức nhịp điệu. “Tôi mong đi tới những câu thơ như lời nói thường mà đạt tới độ cảm xúc mãnh liệt, nếu cần nói hơi dài, dùng những câu dài. Nếu hơi ngắn, nói ngắn. Những hình ảnh thơ mới bây giờ tôi tưởng nó cần phải khỏe, gần gụi, xù xì, chất phác, chung đúc tự nhiên. Những bài thơ cũ cùng một nhịp đều đều, tôi không thể chịu được. Bài thơ chất phác kia tác động vào tâm hồn ta hơn”. Thơ ấy, cảm xúc ấy, tất phải nhịp điệu ấy. Một nhịp điệu chỉ tựa vào chính nó nên không cần đến vần. Hiểu như vậy mới thấy Nguyễn Đình Thi chính là người chống chủ nghĩa hình thức quyết liệt nhất: nhịp điệu mới phải có vần điệu mới. Có điều vần điệu ở đây là bằng không (Zero). Còn “người dùng những điệu đều đặn mà nói được nội dung mới phải là thiên tài. Hình thức cũ để tả nội dung cũ. Nội dung mới, tự nó sẽ tìm đến hình thức mới”. Phép biện chứng đơn giản ấy chưa được những người chống Nguyễn Đình Thi biết đến, nên vô hình trung họ đã tách nội dung ra khỏi hình thức (một cấm kỵ trong nghệ thuật cho dù có tách ra để nghiên cứu), mà cho rằng nội dung và hình thức dù có tách nhau, mâu thuẫn nhau thì vẫn cứ là thơ. Quả thực, vấn đề ở đây không phải là thơ có vần hay không vần. Bởi “mỗi thể thơ có một khả năng, một thứ nhịp điệu riêng của nó”. Nhịp điệu thơ thay đổi khi nhịp sống của thời đại đổi thay. Người làm thơ phải cảm được nhịp sống của thời đại lớn của mình để sống và sáng tạo cùng nhịp với nó.

Nhịp điệu thơ Nguyễn Đình Thi là nhịp điệu của hình ảnh. “Nhịp điệu của thơ không những là nhịp điệu bổng, trầm, lên bổng xuống trầm như tiếng đàn êm tai, một người ngoại quốc không biết tiếng ta cũng có thể nghe thấy được. Nhịp điệu của thơ không giới hạn ở thứ nhạc ngoài tai ấy. Thơ có một thứ nhạc nữa, một thứ nhịp điệu bên trong, một thứ nhịp điệu của hình ảnh (ĐLT nhấn), tình ý, nói chung là của tâm hồn”.

Như vậy, nhịp điệu của hình ảnh, theo Nguyễn Đình Thi, không phải là nhịp điệu sinh học (hơi thở ngắn dài), cũng không phải là vần điệu (lên bổng xuống trầm), cũng không phải là nhịp điệu cú pháp, mà là thứ nhịp điệu chỉ nghe được bằng mắt. “Đó là nhịp điệu hình ảnh của những cảm xúc, hình ảnh, liên tiếp hòa hợp, mà những tiếng và chữ gọi ra những ngân vang dài, ngay giữa khoảng lung linh giữa chữ, những khoảng im lặng cũng là nơi trú ngụ kín đáo của sự xúc động”.

Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Cỏ mòn thơm mãi dấu chân em.
Gió thổi mùa thu vào Hà Nội
Phố dài xao xác heo may
Nắng soi ngõ vắng
            thềm cũ ra đi lá rụng đầy
Ôi nắng dội chan hòa
nao nao trời biếc
Nắng nhuộm hương đồng ruộng hương rừng chiến khu
Tháp Rùa lim dim nhìn nắng
            mấy cánh chim non trông vời nghìn nẻo
Mây trắng nổi tơi bời
Mấy đứa giết người hung hăng một buổi
Tháng Tám về rồi đây
            hôm nay nghìn năm gió thổi
Đàn con hè phố môi hồng hớn hở
            ngày hẹn đến rồi
Hôm nay nghìn năm trời muôn xưa
Các anh ngậm cười bãi sú ven sông.
Hà Nội ơi núi rừng.

                        1948
                        (Đất nước)

Ngôn ngữ thơ Nguyễn Đình Thi thật là giản dị, cứ như lời cất lên của đất và nước. Toàn những từ thuần Việt. Câu thơ được thốt ra y như lời nói thường. Tính chất trực tiếp này do nhà thơ hoàn toàn dựa vào thực tại, không tìm kiếm thi liệu ở sách vở. Nó ứ đầy chất sống, nó là sự sống, là cuộc đời. Những lời nói bình thường này không cần đến vần điệu, đến sự đều đặn, đăng đối. Tiếng nói tự nhiên và tự do này tìm lấy cho mình một nhịp điệu tự do. Nói vậy, tức Nguyễn Đình Thi đã học được thứ nghệ thuật cao cấp nói bằng một ngôn ngữ nguyên sơ. Đó là một ngôn ngữ vừa hồn nhiên vừa cố ý, hoặc hồn nhiên một cách cố ý và cố ý một cách hồn nhiên. Bởi lẽ, nếu chỉ hồn nhiên không thôi thì sẽ là tiếng đám đông, phi nghệ thuật, còn nếu chỉ cố ý không thôi thì sẽ là tiếng nói nhân tạo của những chiếc lưỡi gỗ.

Tóm lại, thơ Nguyễn Đình Thi chứa ở bề sâu của nó những mầm mống sau này sẽ trở thành xu hướng chủ đạo cho nền thơ hiện đại sau này: tính gián đoạn, tính đồng hiệu, cái ngẫu nhiên gây bất ngờ, tham vọng nới rộng biên giới thơ để thu nạp vào nó cả văn xuôi, cả âm nhạc (lối kết cấu nhiều bè), cả hội họa (lối xé dán), cả điện ảnh (lối lắp ráp).

Những năm đầu kháng chiến chống Pháp, không phải chỉ mỗi Nguyễn Đình Thi làm thơ tự do, thơ không vần. Hồng Nguyên có Nhớ, Trần Mai Ninh - Nhớ máu và Tình sông núi, Hữu Loan - Đèo Cả... Nhưng thơ không vần của họ chỉ một hai bài, lại không phải là thơ cảm giác, không có nhịp điệu của hình ảnh, không có tính gián đoạn, nhất là không có một quan niệm mới, hoàn chỉnh, nhất quán về thơ hiện đại như ở Nguyễn Đình Thi, nên thơ họ vô sự, còn thơ Nguyễn thì được đưa vào nghị sự ở Hội nghị Tranh luận Văn nghệ Việt Bắc ngày 25, 26, 27, 28 tháng chín 1949.

Ý kiến trong cuộc tranh luận này có thể chia thành hai loại. Một, nhận xét thơ Nguyễn Đình Thi từ những tiêu chí của chính bản thân thơ. Hai, từ tiêu chí ngoài thơ. Loại ý kiến thứ nhất tiêu biểu là của Xuân Diệu. Từ mỹ học của Thơ Mới, lấy Thơ Mới làm hệ quy chiếu, “ông hoàng thi ca” một thời này đã mô tả thơ Nguyễn Đình Thi rất chính xác, dĩ nhiên như là một bức tranh âm bản. Theo ông, thơ Nguyễn Đình Thi đầu Ngô mình Sở, không kết dính, nhiều câu thừa, có tính đầu óc, khó hiểu, không hợp lý, câu thơ cô đúc quá lại không vần nên không truyền cảm. Nhưng đáng buồn cho Xuân Diệu, những nhược điểm ông nêu trên lại chính là ưu điểm nếu nhìn từ chuẩn thơ hiện đại. Bởi đó chính là tính gián đoạn, thơ cảm giác, thơ hình ảnh, thơ nhịp điệu... Xuân Diệu, ngoài ý muốn của ông, đã tôn vinh thơ Nguyễn Đình Thi bằng một hình ảnh đẹp: “Những nét thơ rất đẹp, nhưng chỗ này một nét, chỗ kia một nét, tán loạn như trong một bức tranh siêu thực”.

Những người khác, “văn hóa thơ” kém hơn Xuân Diệu, thì chỉ nhìn vào những tiêu chí bề ngoài, “hình thức chủ nghĩa”. Như Thanh Tịnh, với tư cách là người khai sinh ra thể loại tấu, thơ ( tấu, thì cho rằng thơ Nguyễn Đình Thi không có vần, trúc trắc, khó đọc. Ngô Tất Tố, một dịch giả thơ Đường, kiên quyết hơn, tuyên bố đã là thơ thì phải có vần, “không có vần thì đừng gọi là thơ”. Có người kẻ cả cho thơ Nguyễn Đình Thi chỉ là thí nghiệm.

Thơ Nguyễn Đình Thi cũng được một số người bênh vực như Nguyên Hồng, Văn Cao, Nguyễn Huy Tưởng. Các tiếng nói này hoặc chỉ bênh vực cho thơ tự do nói chung (Văn Cao), hoặc cho thơ Nguyễn Đình Thi chỉ phản ánh tâm hồn anh (Nguyễn Huy Tưởng), riêng Nguyên Hồng coi thơ Nguyễn Đình Thi “không còn là thí nghiệm nữa, mà đã là thành công rồi”. Chưa ai trong số họ chỉ ra được thơ Nguyễn Đình Thi là một kiểu thơ khác, dựa trên một mỹ học khác.

Khép lại ý kiến loại thứ nhất và bắc cầu cho loại ý kiến thứ hai là kết luận của Xuân Diệu: “ý thơ có thể lờ mờ, điệu tâm hồn thì không thể lờ mờ”. Điệu tâm hồn ở đây, trong bối cảnh văn nghệ bấy giờ, có thể hiểu là lập trường quan điểm của tác giả. Điều mà Xuân Diệu chỉ nói xa xôi thì Tố Hữu lại nói sát sàn sạt. Ông cho thơ Nguyễn Đình Thi có “nội dung lạ”. Cái lạ đó là cái cá nhân mà văn nghệ kháng chiến đang muốn gạt bỏ, bởi vậy đọc Nguyễn Đình Thi sẽ gặp phải cái mình đang cố chối bỏ đó. “Tôi thấy ghét thơ anh Thi ghê lắm vì tôi thù ghét cái cá nhân nó lại trở về với tôi”. (Tố Hữu). Hà Xuân Trường cho thơ Nguyễn Đình Thi cá nhân vì cảm xúc cũ, vì “con người anh Thi không ăn khớp với kháng chiến”. Cảm xúc cũ là còn nói đến đau thương, mất mát, còn nói đến nỗi buồn của tâm hồn mình, còn xa rời quần chúng. “Thơ anh Thi chỉ phản ảnh một phần nào tâm hồn của anh, chứ không nói tiếng nói của đại chúng. Thơ anh như hạt ngọc lung linh chứ không phải dòng suối lôi cuốn người ta đi” (Nguyễn Huy Tưởng). Kết thúc toàn bộ cuộc tranh luận, Tố Hữu cho lời cuối: “Những bài thơ của anh Thi tôi cho là không hay vì chưa nói lên được nỗi niềm của quần chúng”.

Như vậy, người sáng tạo thời nào chí ít cũng phải chịu hai trở lực. Một là những quan niệm thẩm mỹ, những quan niệm nghệ thuật một thời đã từng là cách mạng, là số ít, là bị trị, thì nay đã thành số đông, thống trị, xơ cứng và bảo thủ. Hai là thời cuộc bao giờ cũng có những áp lực hợp lý của nó, dù là sự hợp lý vì nó đang tồn tại. Bởi vậy, trước cái định mệnh nghiệt ngã muôn thuở đó, ứng xử cá nhân của người nghệ sĩ là yếu tố quyết định.

Sau Hội nghị Tranh luận Văn nghệ Việt Bắc, có người nói, Nguyễn Đình Thi chữa tất cả những bài thơ không vần thành có vần. Còn nhà thơ thì cho rằng anh không chữa mà ngay từ đầu đã sáng tác hai bản: một, có vần và hai, không vần. Tôi tin lời Nguyễn Đình Thi. Tuy nhiên nếu đúng như vậy, thì sự việc cũng chẳng khác đi bao lăm. Bởi lẽ, sau đó Nguyễn Đình Thi không làm thơ không vần nữa. Và ở tập thơ in sau đó, Người chiến sĩ 1956, ông chỉ tuyển những dị bản thơ có vần. Nhưng điều đáng nói hơn là khi đặt hai văn bản ấy cạnh nhau thì văn bản được “vần điệu hóa” đã làm cũ thơ Nguyễn Đình Thi đến hàng chục năm trời. Đây là bài thơ Không nói có vần:

Dừng chân trong mưa bay
Liếp nhà ai ánh lửa

Yên lặng đứng trước nhau
Em em nhìn đi đâu
Em sao em không nói

Mưa rơi ướt mái đầu
Mỗi đứa một khăn gói

Ngày nào lần gặp sau
Ngập ngừng không dám hỏi
Chuyến này chắc lại lâu
Đoàn thể gọi

Chiều mờ gió hút
Nào đồng chí - bắt tay

Em
Bóng nhỏ
Đường lầy


Bài thơ bị kéo dài ra, xếp thành từng khổ. Vần đã che lấp mất nhịp điệu tự nhiên của lời nói thường buột ra từ trái tim của nhà thơ. Sự vần điệu hóa cũng làm cho bài thơ mất đi tính cá nhân, trở thành tiếng nói của anh cán bộ, nhất là khi được chêm vào những từ như ánh lửa, đoàn thể, đồng chí, bắt tay... Cũng một chiều hướng như vậy, bài Đường núi đến năm 1994 mới được tuyển lại trong tập Thơ Nguyễn Đình Thi, nhưng một số câu đã được thay bằng “dị bản”, như Tiếng ai hát lênh đênh được thay bằng Tiếng ai hát trên nương, còn Ta nghe ta hát một mình thì bằng Đâu đây tiếng suối rì rào...

Nguyễn Đình Thi là người sớm cảm nhận được mạch đập của thơ hiện đại thế giới. Ông đã tìm ra cho mình một thi trình vào hiện đại. Nhưng, có thể, ông chưa đủ kiên trì, một sự kiên trì cần thiết để biến cái trực giác mỏng manh, thoáng chốc ấy thành một quan niệm nghệ thuật bền vững. Và nhất là đủ trơ lỳ để đi đến tận cùng con đường ấy. Bởi, lẽ của một nhà thơ, như J.P. Sartre nói, mất là được.

Lý giải hiện tượng này, có người cho Nguyễn Đình Thi chịu áp lực quá nặng nề của thời thế. Tôi nghĩ, có lẽ còn có một nguyên nhân nào đó sâu xa hơn, nằm trong chính con người nhà thơ. Đó là sự lưng chừng, không dứt khoát ở Nguyễn Đình Thi giữa hai cực đối lập: truyền thống và cách tân, giữa mỹ cảm cũ và mới thơ có vần và thơ không vần, truyện thơ (Mẹ con đồng chí Chanh - 1953) và thơ trữ tình tự do... Còn áp lực muôn thuở của thời thế chỉ là điều kiện để cho sự lưỡng phân này bộc lộ. Đã thế, Nguyễn Đình Thi lại đa tài.

Đa tài cũng có thời của nó. Thời Tiên Tần ở Trung Hoa, thời Hy Lạp cổ đại, thời Phục hưng và Lãng mạn ở châu Âu xuất hiện nhiều nghệ sĩ đa tài. Đó là những thời đại hướng tâm. Con người còn sống hài hòa với chính bản thân mình nên tinh lực của họ được tập trung, các tài năng trong họ đều đi về một hướng. Còn ở thời đại ly tâm, con người không trùng khít với bản thân, nó bất hòa với chính nó, tinh lực bị phân tán, các tài năng trong họ dễ trở thành cản trở nhau. Các năng lực thi ca, âm nhạc, văn xuôi, kịch nói ở Nguyễn Đình Thi tuy không đến nỗi cản trở nhau, những dễ làm cho người nghệ sĩ ngộ nhận là làm gì cũng được. Bởi thế, khi thơ không vần bị phê phán, Nguyễn Đình Thi không tiếp tục vượt lên chiến thắng định mệnh mà rẽ sang văn xuôi, kịch nói để tự khẳng định mình ở Xung kích, Vỡ bờ, Vào lửa, Mặt trận trên cao, Con nai đen, Giấc mơ, Rừng trúc... Tôi không dám chắc Nguyễn Đình Thi, như lập thuyết của một nhà phê bình nọ, có thuộc về thiểu số “người khôn” biết đào nhiều “hang” phòng khi bị bịt hang này thì đã có hang kia mà sáng tác? Nhưng tôi đoán chắc rằng việc ông không chuyên canh thơ, không đi đến cùng trong cách tân thơ để đưa thơ Việt Nam sớm thoát khỏi cái ách của Thơ Mới lúc này đã trở nên nặng nề để đi đến thơ hiện đại là một thiệt thòi lớn cho thơ Việt Nam chung và riêng cá nhân ông. Bởi lẽ, xét cho cùng, thì dẫu đa tài, Nguyễn Đình Thi chủ yếu vẫn là một nhà thơ. Và, “thơ, như ông thổ lộ, đó là một cái thiết tha nhất của tôi, và cũng là cái tìm tòi rất khổ của tôi”.

Thơ Nguyễn Đình Thi là một cột mốc lớn trên hành trình đổi mới thơ sau 1945. Sau ông, từ 1956, lại khởi đầu một đợt đổi mới khác là các nhà thơ trong nhóm Nhân văn Giai phẩm. Thơ Trần Dần, Lê Đạt phần nào cách tân dưới ảnh hưởng của thơ Maia. Trước hết, tinh thần sáng tạo ngôn ngữ của Maia thời vị lai, thời của “đám mây mặc quần”, đã truyền cho các nhà thơ Việt Nam này sự thức nhận ngôn ngữ. Còn Maia thời “cộng sản ngoài Đảng”, thời đồng nhất cách mạng thi ca với cách mạng xã hội, đã làm sống lại ở một xứ sở khác lối thơ diễn đàn với cách nói khoa trương và thể thơ bậc thang. Nhưng nhóm Nhân văn Giai phẩm, hoặc quá hưng phấn nội dung chính trị nên chưa hoàn toàn hiến thân cho thi pháp, hoặc họ mới chỉ đang đi những bước đầu tiên thì bị khựng lại, nên những cách tân thực sự về thi pháp của họ chỉ được thực hiện vào thời hậu Nhân văn, khi họ bị cách ly hầu như hoàn toàn với xã hội, khi bản thân họ, với tư cách một nghệ sĩ, bị đặt vào tình thế “cách tân hay là chết?”

Nguyễn Đình Thi sau 1949 phân thân thành hai con người, người nghệ sĩ và ông quan văn (nghệ). Sự giằng co giữa hai con người đó là “bất phân thắng phụ”. Khi thời cuộc không thuận cho con người xã hội thì con người nghệ sĩ trỗi dậy, và Nguyễn Đình Thi có Con nai đen, Nguyễn Trãi ở Đông quan, có những bài thơ như Hoa vàng, Một khoảng trời xanh kia... Nhưng sự tán phát tinh lực, sự xuất hiện đơn độc những bài thơ không vần giai đoạn này không tạo lập một phong trào. Cái thời điểm một cánh én có thể làm nên cả mùa xuân đã trôi qua sau 1949. Thơ Việt Nam sau Xuân Thu Nhã Tập, một lần nữa, lại nhỡ một chuyến xuân.

Bên Thành Sen 7-2001
Đ.L.T
(172/06-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.

  • LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.

  • TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.

  • PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!

  • NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.

  • NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.

  • HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.

  • NGUYỄN VĂN THUẤN          (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.

  • PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.

  • THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.

  • HÀ  ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.

  • LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.  

  • BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.

  • LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG   (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.

  • TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.

  • HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.

  • NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.