Nguyện của cây

10:14 14/02/2017

ĐINH PHƯƠNG

Khi tôi mười ba tuổi. Lần đầu tiên tôi nói với mẹ “Đừng rơi về phía bóng tối”. Mẹ không hiểu tôi. Bà không biết tôi đang diễn tả điều gì. Mẹ nhìn tôi đầy ngờ vực và cười khẩy.

Minh họa: Đặng Mậu Tựu

Một bà mẹ bốn mươi không thể hiểu được đứa trẻ mười ba. Điều đó là tất nhiên. Nhưng tất nhiên hơn nữa từ hôm đó tôi lùi dần vào phía bóng tối được bao phủ bởi những cơn mưa thị trấn. Cơn mưa này nối cơn mưa kia trên một đoạn đường hun hút vắng.

Tôi không biết diễn tả với mẹ sao điều tôi muốn nói. Về bóng tối, mưa và một khoảnh khắc nhận ra rằng mình sẽ rơi.

Tội nghiệp giấc mơ.

Mà giấc mơ chỉ có màu đen của cơn mưa. Người đi trong cơn mưa đó xuyên qua các ngôi nhà, xuyên qua cây và các tầng ký ức cũ. Người đi không có tên tuổi. Họ gạt mọi thứ gắn lấy xung quanh mình. Như thơ thẩn, cười. Và ngây dại. Không quen biết ai.

Mẹ tôi không tin những điều tôi viết ra trên đây, lúc này. Bởi bà đã già lắm rồi. Bà nắm giữ những đức tin của ngờ vực. Ngờ vực chính mình. Ngờ vực tôi. Ngờ vực nhiều người. Bà nắn nắn ngón chân cái cho đỡ mỏi và lẩm nhẩm nguyện cầu. Cho sống chết. Buồn bã. Bà ngồi ở cửa nhìn ra con đường mà ngày nào tôi cùng chúng bạn vẫn chơi và thấy lại chúng tôi, ở hình bóng. Lúc chỗ này, khi chỗ kia. Ngón chân cái mỏi nhừ bà muốn cắt phăng nó đi bằng con dao phay vẫn dùng chặt xương. Một nhát… Nhỡ mồm, bà để lọt ra hai từ đó lẫn vào bài nguyện. Bà sám hối. Coi như tội lỗi của ngôn ngữ không thuộc về bà mà thuộc về quỷ. Hay là một thử thách của đấng tối cao. Bà đã không vượt qua, nhưng niềm tin về sự vượt qua còn lớn hơn. Bà lẩm nhẩm, lẩm nhẩm. Ngón cái vân vê vết chai ở lòng bàn tay. Thở dài. Nhìn xa...

*

Tôi đã không vẽ được chính xác cái giây phút mẹ nhìn xa xăm ấy. Nó vụt mất. Khoảnh khắc giữa tội lỗi vô tình phạm phải và sám hối cho điều đó không bao giờ tôi có thể đạt tới.

Bởi tôi không tin đức tin của mẹ.

Tôi không tin mẹ.

Một ngày của mẹ bắt đầu bằng nguyện và kết thúc cũng bằng nguyện. Nguyện trong khi ăn. Nguyện khi ngủ. Nguyện khi nói chuyện với người khác. Nguyện khi nói điện thoại với tôi. Bà còn nguyện khi nhớ tôi nữa.

Thật khó chịu.

Tôi không dám nói thẳng điều ấy với bà. Tôi chỉ có một cách chống lại là chạy trốn thật xa khỏi thị trấn. Vậy mà thị trấn vẫn ám lấy. Khi đang ngồi trên xe bus từ chỗ làm về nhà trọ tôi bàng hoàng nhận ra hai bên đường vẫn là hàng bàng của thị trấn. Hàng bàng ngày ngày mẹ vẫn nhìn ra. Ngàn cánh tay xương xẩu che giấu nền trời xám xịt phía sau. Không mưa. Nhưng tôi khóc. Trời tháng hai vẫn còn lạnh. Người đàn bà ngồi cùng ngồi dịch ra ngoài, lịch sự hỏi: “Cô làm sao đấy?” Âm sắc lạnh lùng xoáy lấy. Nỗi chán chường bủa vây kính xe làm thành giọt chảy xuống. Bên ngoài chắc đang mưa. Ở thị trấn có mưa? Tôi trả lời cộc lốc: “Không sao”. Tôi không nghe thấy tiếng của chính mình. Tôi chỉ ngửi thấy mùi ngai ngái của thân thể mẹ. Mùi của giấc mơ mốc meo, lưu cữu.

Người đàn bà xuống xe ở bến sau. Màu xanh dương của áo khoác đột nhiên cứa lấy. Rất mạnh. Mạnh hơn cả những hàng bàng chưa kịp đâm chồi, nảy lộc hai bên đường. Tôi thèm muốn được chết. Kinh khủng.

Như cây cỏ lô nhô.

Vào ngày 20 tháng 2. Khi hai ba tuổi, bốn ngày.

Tôi xuống xe ở bến sau nữa. Đứng nép vào trạm chờ xe. Chiếc xe vừa chở tôi đi xa dần, khuất sau đường rẽ về thị trấn khác. Từ thị trấn khác đó về thị trấn nơi tôi sinh ra phải qua hai thị trấn khác nữa. Cảnh vật cũng thế. Nhà cửa cũng thế. Có khác đi là một khái niệm nơi đây không phải nơi tôi sinh ra, thế thôi. Lần nào về nhà tôi cũng lơ mơ ngủ bỏ qua một trong ba thị trấn phải qua. Mẹ bảo tôi là con sâu ngủ. Ngủ cho hết một kiếp người thì có tội không mẹ? Mẹ không trả lời. Vội vã đi đâu đó với những người cùng đức tin. Một bà béo, một bà gầy, một bà tóc bạc ngắn rẽ ngôi giữa. Tôi chào cả ba bà. Tôi ngồi vào chiếc ghế mẹ vẫn ngồi nhìn ra con đường trước mặt. Nắng hiu hắt xám. Màu trong mắt tôi chỉ còn đen trắng. Tôi ghi nhớ tất cả. Cái cây, con chim, nóc nhà ngói nhô ra nham nhở, đứa trẻ con chạy vụt từ trong nhà ra đuổi theo quả bóng... Chậm chạp. Cảnh vật không tiến lên mà dừng lại. Tôi cũng dừng lại ở quãng nhìn đầu tiên.

Khoanh vùng. Gặm nhấm.

Tỉ mẩn tí một.

Cho đến khi mẹ về tôi đã hóa thành cảnh vật. Tôi không nghe thấy mẹ nói gì nữa. Lòa nhòa. Lòa nhòa. Tiếng nói trượt qua tai như gió. Tôi nhìn mẹ như nhìn một bóng mây di chuyển qua trời. Mẹ lay lay vai tôi. Tôi thành cây. Tay mẹ thành con chim sâu nhỏ gõ gõ mỏ. Chân tôi thành rễ đâm sâu xuống đất. Quấn quanh chiếc ghế nhựa mẹ vẫn ngồi. Người hóa thân cây. Da hóa vỏ. Tay thành cành vươn về hai hướng. Mẹ bàng hoàng cầu nguyện.

Đấng tối cao bỏ mẹ rồi.

Phải năm ngày sau tôi mới hóa lại thành người.

*

Trạm chờ có ba người. Tôi im lặng, sợ hai người kia bắt chuyện.

Chưa bao giờ tôi sợ tiếng người hơn lúc này.

Nhưng tôi chờ đợi điều gì ở trạm xe bus này? Chính bản thân tôi cũng không biết. Tôi sợ về thị trấn. Sợ gặp mẹ. Sợ hóa cỏ cây. Đồng thời, tôi cũng muốn về nơi đó hơn bất cứ đâu trên cõi úa này. Giá mà tôi và mẹ chung nhau một đức tin. Tôi đã từng tin, thật tâm, nhưng không còn tin nữa. Từ ngày mười tuổi. Từ ngày biết thế giới chia làm hai nửa bóng tối và ánh sáng. Con người thường ngả về phía bóng tối nhiều hơn.

Mẹ ở phía tối.

Tôi cũng thế.

Mẹ lầm rầm cầu nguyện. Con đường trước nhà đông vào buổi sáng và xế chiều. Khi người lớn đưa trẻ con đi học, đón chúng về. Thị trấn chỉ có một trường cấp hai duy nhất. Tôi cũng học trường đó, cũng cởi áo trắng bên ngoài buộc hờ vào cổ để chạy cho bay làm siêu nhân, cũng nặn những quả cầu bằng cát để mơ gặp Cô gái đại dương(*), cũng trèo tường ra ngoài để ăn vài cái bánh me, kem túi đậm phẩm màu vàng đỏ. Khi nhớ lại những gì đã qua tôi có cảm giác chúng không mất đi. Chúng vẫn còn đó, hiển hiện trong một khoảng thời gian của nỗi nhớ và ký ức. Từng khuôn mặt, từng cái cây, từng hạt cát nhỏ trôi chầm chậm từ góc nhỏ này sang góc nhỏ khác. Im lặng. Tôi ngắm nhìn chúng, ngắm nhìn chính tôi. Rồi tỉ mẩn đọc ra từng cái tên: Vân Anh, Hiển, Phương, Vinh, Hiếu, Thúy, Thắng, Hoa, Hưng, Loan... Đâu đó trong những cái tên mơ hồ có tên tôi. Tôi vơ đại lấy một cái tên và biết cái tên là Vân Anh. Cô bạn nhỏ gần nhà đã nhổ của tôi cây nhãn trồng được ba ngày trên đống cát ở cổng. “Mày không thể về khi chưa trồng lại nó. Cây tao trồng sắp đến ngày ăn quả mà mày dám nhổ hả?” Cây nhãn dài gang tay. Tôi bừng bừng tức giận. Mặt cô bé trắng bệch sợ hãi. Chính tôi giây phút nhớ lại cũng sợ hãi. Khi bé người ta có xu hướng đến gần với tội ác hơn để thể hiện mình. Cái tên Vân Anh trôi đi. Chỉ còn lại cây nhãn trong một đoạn phim chiếu rời để chuyển sang đoạn khác.

Đoạn khác với tên khác. Phương. Tôi nhớ Phương khi Phương thả con thuyền ở đầu kia cống và bảo tôi chờ ở đầu đối diện. Thế giới trong cống đen ngòm với vô vàn thứ mà chúng tôi không biết. Ánh sáng yếu ớt chiếu vào cũng chỉ được một phần ba. Đoạn ở giữa là một bí ẩn. Con thuyền mắc lại. Đợi mãi. Đợi mãi. Cuối cùng tôi chạy sang đầu kia lấy đá ném vào giữa. Con thuyền trôi ra, chầm chậm, rách nát, ngấm nước. Chúng tôi gấp một con thuyền khác, thả, lại đợi. Cho đến khi mắc cạn mãi thì chuyển sang trò chơi khác.

Tại sao chúng tôi không biết ngay từ đầu mình không thể thoát ra?

Có thoát ra cũng không còn nguyên vẹn, lành lặn nữa.

Thoát ra là chết.

Vậy mà vẫn cố bơi mãi. Chảy xuôi theo dòng chảy nhỏ, mắc kẹt, chịu trừng phạt, lờ đờ trôi ra.

Phương hóa tôi. Tôi hóa Phương. Đoạn ký ức dài giờ bị tước đi từng mảng. Đầu tiên là Phương. Rồi mấy ngôi nhà bên cạnh. Cây xoài. Chiếc xe đạp của bà bán kẹo kéo. Tảng trời xanh bên trên. Con đường trước mặt. Cống nước. Con thuyền. Màu của ánh sáng cũng bị tước đi. Chỉ còn nhờ nhờ tôi ngồi với hai bàn tay như đang gấp gì đó.

Sao tôi không bị tước đi?

Thà như thế để nuôi một nỗi tuyệt vọng không nguồn gốc còn hơn bị sót lại gì đó mỏng mảnh để bám vào. Rồi xúc động. Như mình trở lại quãng thời gian đẹp nhất của đời người mà chẳng thứ gì có thể ngăn giữ. Mơ hồ. Mờ ảo. Ẩn sau mỗi lần trở về là một con quái vật mang tên tiếc nuối. Thức ăn của nó chính là nỗi sợ hãi và cảm giác hưng phấn của chính tôi khi thấy lại mình. Không có thức ăn nó không thể sống. Bám thật chặt. Nó lấp sau ngôi nhà nơi thị trấn, nơi có mẹ tôi ngày ngày ngồi nguyện. Mẹ không phải là thức ăn của nó. Mẹ không có ký ức, sợ hãi hay hưng phấn, mẹ chỉ có hiện tại với lời lẽ cao siêu cần cho cõi khác hơn cõi này. Con quái vật thích ăn chính tôi hơn. Nhưng tôi lại ít trở về kể từ ngày tôi phát hiện ra nó.

Năm mười ba tuổi. Tôi hỏi mẹ: “Ai ở phía bóng tối?” “Bóng tối nào con?” Mẹ hỏi lại. Tôi thở dài nhìn vào góc nhà. Góc nhà tối, đầy bụi bặm mỗi khi mẹ quét ra. Con quái vật trốn ở đó. Nhưng mẹ không nhìn thấy. Cũng như sau này mẹ không nhìn thấy tôi vì sợ mà chạy trốn và lần lữa mãi với mỗi lần trở về. Mẹ cầu nguyện để trốn con quái vật. Tôi thì không thế, tôi bỏ đi để trốn.

Con quái vật không bị lừa lâu.

Nó bỏ thị trấn để bám theo tôi.

*

Chỗ ở đầu tiên của tôi khi tới thành phố là ngõ nhỏ nằm sau trạm trung chuyển xe bus. Có sáu chuyến xe bus từ các thị trấn dừng ở đây để vào nội thành. Bốn chuyến từ thành phố qua. Có một chuyến lấy trạm là điểm đầu, cũng như điểm cuối, vòng tròn. Chỗ tôi làm đi hết một vòng thành phố. Công việc chính là trực điện thoại của một quán cơm rang, mì xào hải sản. Ghi tên người đặt hàng, số xuất, địa chỉ, số điện thoại, yêu cầu đặc biệt như nhiều hành hay không hành, đồ uống rồi chuyển xuống nhà bếp để làm, người giao hàng đưa đi. Khách hàng chính là nhân viên văn phòng, đơn đến chủ yếu vào buổi trưa, buổi tối cũng có nhưng ít hơn, chủ yếu thanh niên độc thân. Không có ai có ý định tán tỉnh tôi qua điện thoại. Chữ viết của tôi dễ đọc để không bị làm khó. Mức lương tạm đủ sống một mình ở gác xép tầng hai, sau cây hồng xiêm che xòa vào hiên hẹp, nhà vệ sinh chung với nhà chủ, trong con ngõ nhỏ mang số 39, bữa trưa và bữa tối ăn cơm hoặc mỳ tại quán. Buổi sáng thường ăn bánh mỳ hoặc xôi lạc ở mấy hàng đầu ngõ.

Vật dụng chính là ba lô đựng ba bộ quần áo dài, hai bộ quần áo ngủ, quần áo lót màu đen và hồng, mũ lưỡi trai màu xám, tất chân, vỉ thuốc cảm, lọ thuốc tiêu chảy, nửa gói băng vệ sinh dùng dở...

Ngày rời thị trấn tôi không biết mình cần mang theo gì?

Mẹ không giúp tôi được trong việc chạy trốn. Lúc ấy bà còn ngủ. Nếu có thức chắc chắn bà sẽ không cho tôi đi. Rón rén mở cửa. Bước ra. Thị trấn tiễn tôi đi bằng mưa. Mưa phủ trần mù khơi ướt tóc. Sương mờ mờ giăng trắng. Đằng trước là nỗi nhớ hay tôi? Vết giày chạp nước mỏng lép bép kêu. Tiếng chó sủa vọng từ xa xa lan tới. Tim đập nhộn. Tôi ngoái lại phía sau. Căn nhà trơ trọi đứng nhìn ra con đường trước mặt. Con đường tôi đang bỏ trốn. Hay quay lại? Phía ánh sáng vọng lên yếu ớt, bị nuốt chửng bởi mưa và sương. Tôi không còn lựa chọn nào khác. Từ ngày bố lén bỏ đi giữa đêm tôi cũng biết mình phải bỏ đi. Bố ở phía bóng tối, bố đến với người đàn bà của bố không phải là mẹ. Tôi căm thù họ. Họ ở trong thị trấn. Mẹ cũng ở thị trấn. Tôi muốn trả thù cho mẹ. Còn mẹ? Mẹ nguyện cầu cho tội lỗi của họ. Tại sao lại thế? Tại sao phải làm thế? Tôi cố đào một chút đức tin của mẹ lên để sống tiếp mà không chịu đựng được. Tôi muốn mẹ là một người đàn bà bình thường chứ không phải một á thánh để thờ phượng.

Con quái vật tiếc nuối cũng muốn mẹ là người bình thường.

Trước ngày đi tôi tìm đến bố. Đúng bữa trưa. Mâm có canh cá, rau sống và tôm rang. Bố bảo tôi ăn cơm. Tôi không ăn. Người đàn bà quỷ dữ xới cơm cho bố, gật đầu chào tôi rồi dắt xe đi. Bà ta có cửa hàng bám đồ sơ sinh nằm cạnh đường quốc lộ xuyên ngang thị trấn. Màu vàng của tôm, xanh của rau sống gợi cuộc sống đang diễn ra bình thường. Nghĩ đến mẹ đang cầu nguyện, ăn chay ở nhà nỗi tủi nhục cuộn lên. Tôi đứng dậy.

“Con cần gì?”

Năm năm bố đi tôi nghĩ mình cần gì ở một người bố? Một chỗ dựa. Ước mơ hay nỗi nhớ. Cảm giác bằng bạn bằng bè. Đều không. Năm năm tôi quen dần việc nặn bóng mình trong bóng tối. Không khó lắm. Bóng trơn, keo, dính như đất sét. Lấy ra được từng tảng một, khi nặn chán tôi lại đắp vào như cũ. Chỉ cần thực sự tập trung dồn sức vào đôi tay là làm được. Vuốt vuốt, chỉnh sửa. Hình khối trước rồi đến tay chân, vạt áo, mắt mũi, các chi tiết nhỏ hơn. Đa phần tôi đều nặn tượng mẹ đang ngồi trước cửa nhìn ra con đường trước mặt. Chưa khi nào tôi nặn bố.

Một người chết có nhiều ký ức hơn. Là ký ức được tái tạo thông qua người sống mà cái chết làm bật lên. Cái chết thổi vào hình ảnh người chết một ý nghĩa mới.

Tôi không thể bịa đặt gì về bố khi bố còn sống. Bố bỏ mẹ con tôi đi theo người đàn bà khác. Ký ức đấy. Mẹ kiếp. Thế thì có gì đáng nói nữa chứ. Trong ngần ấy năm mẹ con tôi vẫn sống nhờ vào đức tin của mẹ và phần bóng tối trong tôi. Tha thứ. Con hãy tha thứ. Tại sao phải tha thứ khi trong lòng mẹ thực sự không muốn điều đó? Tại sao phải đến tận cùng đức tin? Tận cùng đức tin là gì?

Mẹ im lặng.

Như tôi im lặng lúc này trước câu hỏi cần gì ở bố.

*

Con quái vật thị trấn bắt gặp tôi ở trạm chờ xe. Nó lầm lũi tiến đến khi tôi đang đợi xe bus đến chỗ làm. Vội vã, sợ hãi, lên ngay chiếc xe đang mở cửa. Chiếc xe hướng ngược lại quán ăn.

Ngập ngừng, ngoái lại đằng sau. Nó không kịp lên chiếc xe tôi đã lên. Chính nó cũng đang ngơ ngác ở trạm chờ xe với các chuyến đi về các hướng. Nó xa lạ với nơi này. Xe cộ, nhà cửa, người ngợm. Nếu nó ở đây lâu nó cũng sẽ xa lạ với chính bản thân nó nữa.

Hôm ấy tôi đi làm muộn.

Trong thành phố có con quái vật đi lạc.

*

Khi tôi không còn nhớ nổi tuổi mình tôi nói với mẹ - mẹ nên nuôi một con chó, vừa giữ nhà, vừa vui, có bầu có bạn. Mẹ nhìn tôi ngỡ ngàng. Không để mẹ kịp phản đối, ngay sáng đó tôi ra chợ mua một con chó con màu xám với lông đen ở bốn chân, đốm lưỡi. Con chó liếm tay tôi, ươn ướt, nhột nhột. Tôi mua gan lợn nấu chín, thêm ít mắm, nhai, trộn cơm cho nó ăn. Nó nằm cạnh mẹ khi mẹ ngồi trên ghế gỗ nhìn ra đường.

Phải ghi nhớ một hình ảnh mới.

Tôi đã ghi nhớ hình ảnh mẹ ngồi cạnh con chó con nhìn xa xa. Con chó con chìm trong giấc ngủ của buổi chiều đang chìm hẫng xuống. Mặt trời bị mây phủ thành quầng vàng treo lơ lửng ở góc trái. Bọn trẻ con tan học chạy qua nói về siêu nhân, dị nhân. Nó ngẩng lên, không sủa, mắt chớp chớp rồi ngủ tiếp. Nó đã ăn no. Tiếng bọn trẻ con còn vẳng lại. Cây xoài im lìm thả lá xuống đặt trên khoảng đất trống trước mặt. Cây xoài duy nhất của thị trấn. Đất thị trấn chỉ hợp trồng bàng. Trồng các cây khác cũng được nhưng còi cọc, không ra quả. Chỉ cây xoài này vài năm có được vụ quả chín.

“Con đừng đi nữa”.

Tiếng mẹ thoảng như gió. Tôi từ từ hóa cây. Tôi sợ lần này là mãi mãi, không thể hóa lại thành người. Mẹ lầm rầm cầu nguyện. Mắt nhắm. Mặt nghiêm trang hơi ngẩng lên.

Mẹ nguyện cho cây.

Con chó nhỏ mới mua về vẫn ngủ. Dù sao đi nữa tôi cũng không thể nào thoát ra được các khung cảnh cũ, mới. Tôi biết điều đó. Chúng lẫn đâu đó chỉ chờ dịp tái hiện trong đầu. Cho đến tận lúc này tôi vẫn bị giam hãm mãi nơi thị trấn. Rễ cây của tôi đâm vào da thịt thị trấn để tìm cách bứt ra; để hận bố và người đàn bà bố sống cùng; để suy nghĩ cho mẹ; và cuối cùng nghĩ về cái chết của chính mình. Tôi là người của thị trấn. Cũng như mẹ là người của nguyện và đức tin mà mẹ cho là đúng. Đáng ra, tôi cần yêu, chăm lo cho mẹ nhiều hơn. Như tận thẳm sâu mẹ cũng yêu tôi nhiều như vậy.

Tôi là một phần ủ dột, ướt đầm của bóng tối.

*

Trạm chờ chỉ còn tôi.

Trên chiếc xe bus vừa qua tôi thấy con quái vật đi lạc của thị trấn. Tôi cần phải đi tìm nó. Ngay bây giờ. Để đưa nó về lại thị trấn.

NHƯ TÔI.

Ngày 23/9/2016
Đ.P
(TCSH335/01-2017)

--------------
(*) Cô gái đại dương: Phim khoa học viễn tưởng do Australia sản xuất, chiếu trên VTV3 năm 1999.






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN KIÊM ĐOÀN Ngôi nhà một thời là tổ ấm trên đồi bỗng trở thành rộng gấp đôi, gấp ba và vắng vẻ như một tòa lâu đài cổ từ khi Bé Út dọn ra khỏi nhà để lên miền Bắc học. Đứa con 18 tuổi trên đất Mỹ nầy rời nhà đi học xa thường có nghĩa là đang bước vào đời, ra khỏi vòng tay cha mẹ, thật khó lòng về lại. Những bước tiếp nối là học ra trường, kiếm việc làm, chọn nhiệm sở như cánh buồm đưa tuổi trẻ ra khơi. Bất cứ nơi nào có thể an cư lạc nghiệp trên 50 tiểu bang sẽ là nơi đất lành chim đậu. Tuổi thành niên tiêu biểu của văn hóa Âu Mỹ là tự lập, gắn liền với  vai trò chuyên môn và xã hội chứ không phải quanh quẩn với đời sống gia đình.

  • ĐỖ PHẤNĐêm rất khuya dưới chân núi H. Khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được một con đò bằng tôn móp méo xác xơ. Chẳng hiểu ban ngày trông nó thế nào. Có lẽ đây là chiếc đò bị cấm lưu hành? Không thể có mặt ở bến vào ban ngày. Cũng là cấm làm phép. Dòng suối không có chỗ nào đủ sâu để có thể chết đuối.

  • ĐỖ KIM CUÔNGBây giờ bạn bè ít được gặp anh lang lang trên phố. Thảng hoặc dăm bữa nửa tháng, có khi hơn mới tóm được anh. Ấy là khi anh phải ra khỏi nhà đi nạp bài cho những tờ báo mà anh thường cộng tác, hoặc đi nhận nhuận bút một vài bài thơ lẻ in trên báo.

  • VŨ NAM TRỰC           Truyện ngắn

  • TRẦM NGUYÊN Ý ANHÔng Nhâm bước chầm chậm theo con đường tráng xi-măng ngoằn ngoèo trong con hẻm nhỏ. Căn nhà ông ở cuối xóm, một trệt, một lầu... mới tinh. Cánh cửa sắt đóng im ỉm. Ông ngồi bệt xuống nền xi-măng vì chân ông đã mỏi. Lẽ ra, khi mấy đứa con ông chưa bàn nhau cất lại căn nhà, ông đã có thể đẩy cánh cửa rào bằng tre và đàng hoàng bước vào nhà mình.

  • XUÂN CHUẨNĐể rồi tôi kể cho ông nghe về lai lịch cái quạt, để ông ông khỏi coi tôi là Thằng Bờm có cái quạt mo. Cái thời quạt điện quạt đá, máy lạnh mà cứ bo bo cái quạt kè, thỉnh thoảng lại đạp phành phạch như mẹ hàng cá thách lên giữa chợ. Cũng chẳng có gì li kỳ, hay mùi mẫn rơi lệ, chỉ là chuyện đời tầm phào.Hai ông trải chiếu ngồi giữa sân, nhâm nhi chén trà, ông Thân nói với đại tá Tiến về hưu như vậy khi đại tá ngỏ ý thích cái quạt kè của ông.

  • TRẦN THỊ TRƯỜNG  Bim chào đời vào lúc kém 19 phút. Trăng hạ tuần phun nhẹ màu đục của sữa vào bầu trời. Hôm sau trời lất phất mưa. Bố nói với bà ngoại trước khi đi làm: "Nếu không thấy con về thì bà giúp con cùng nhà con nuôi cháu". Câu nói ám ảnh làm trí tưởng tượng của bà ngoại nhiều lần thắt lại. Sau này nhiều khi bà ngoại sợ cả cái bóng của mình.

  • NAM TRUNG Ông Hãnh cứ đi tới đi lui trong phòng khách nhà ông, vừa đi vừa quạu cọ lẩm bẩm: thằng Hùng nó nói vậy là nó có ý coi thường mình, nó dám trứng khôn hơn vịt. Rồi mày sẽ biết tay ông. Ông sẽ cho mày còn lâu mới được vào Đảng, ông sẽ bác tất cả những đề xuất về mày...

  • HOÀNG THÁI SƠNKhi tôi lớn lên thì nội tôi đã mất từ lâu nhưng thỉnh thoảng dân làng vẫn nhắc đến người với niềm cảm mến về những chuyện không ít ly kỳ. Ông tôi rất khoẻ, người tròn vo, đen như sừng, tục danh Cu Trắt - phương ngữ vùng quê tôi nghĩa là nhỏ và rắn chắc. Ông ham mê võ thuật, thạo côn quyền, thuở trai thường đóng vai ông địa trong đám múa lân. Đám múa năm nào hễ thiếu ông là coi như nhạt trò, dân làng chẳng ai buồn xem. Người ta đồn ông tôi tài ba lỗi lạc, như có thể đi trên lửa, nhảy qua nóc nhà, còn những thứ chui vào hậu cung đình làng mà không cần dở ngói là xoàng... Kho chuyện về ông ngày càng dày do mồm miệng dân gian thêu dệt thêm, tuy nhiên trong đó nhiều chuyện là có thật.

  • PHAN XUÂN HẬUTôi trở về quê sau mười năm xa cách. Quê tôi nằm cuối con sông Vẹn, con sông này là nhánh của sông Dinh, bắt nguồn từ dãy núi Gám, chảy qua bến Dền. Nơi đây xưa kia là kinh đô của vua Dền. Vua Dền tụ tập lực lượng chống lại nhà Trần khi đó đang trấn áp nhà Lý. Vua Dền là hậu duệ của Lý Thái Tổ, ông không chịu sự chuyên quyền của vua tôi Trần Thủ Độ bèn lập căn cứ ở miền Tây Yên Thành, tức quê tôi, và Dền là kinh thành của ông, dân quen gọi ông là vua Dền.

  • NGUYỄN VĂN VINHTết Mậu Thân năm ấy tôi tròn mười sáu tuổi. Soi gương, tôi thấy y xì một con bé tóc lơ xơ hoe nắng, xấu tệ.

  • CHÂU DIÊNĐơn vị của tôi đi bộ từ một tỉnh miền Trung, lên qua Mường Phăng thì Điện Biên đã giải phóng. Sau một tháng đi bộ nhưng gần như chạy bộ, chúng tôi được phép nghỉ lại hai ngày ở một bản, hồi đó bản này nằm khá sâu trong rừng, nhưng nay thì nó đã ở bên một nhánh đường mới làm dẫn ra phố huyện Tuần Giáo để nối vào con đường số 6 chạy tuốt lên Điện Biên Phủ.

  • NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.

  • LÊ TRÂMNgồi với tôi và Kh là một đôi nam nữ còn khá trẻ. Chàng thanh niên, theo lời gã, vừa mới về từ Thái Lan sau khi trúng một hợp đồng béo bở. Gã là đại diện của một công ty xuất nhập khẩu nổi tiếng ở bên ấy.

  • NGÔ TỰ LẬPCó lẽ tôi đã ngủ rất lâu trước khi bị lay dậy một cách dữ dội. Tôi cố nằm thêm, mặc dù đó không phải là thói quen của một người lính cũ. Thường thì tôi bật dậy ngay. Trước khi tôi vào lính, cha tôi, một đại tá từng trải ba cuộc chiến tranh, chỉ dặn mỗi một câu: “Hãy chồm dậy ngay tiếng còi báo động đầu tiên!”. Lời dạy của ông tôi làm theo trong suốt thời gian tại ngũ và cả khi giải ngũ. Nhưng có những lúc ta không làm chủ được mình. Tôi thấy mình đau ê ẩm và phải một lúc khá lâu sau tôi mới chậm chạp mở mắt.

  • PHẠM THỊ CÚCTừ những ngày thơ bé còn cắp sách đến trường cho đến khi đã bước vào đời, con cái đã khôn lớn và trưởng thành, trong ký ức của tôi vẫn luôn lưu giữ những hình ảnh sinh động và kỳ diệu của hàng ngàn con cò trắng rợp cả cánh đồng bát ngát, những cánh rừng và vườn cây trĩu nặng vô vàn chim chóc, hình ảnh chim cò thân thiết đậu cả trên vai người, trên đầu người, quẩn dưới chân người... là chuyện của Vùng Đồng tháp Mười qua những trang viết hấp dẫn của các nhà văn Sơn Nam và Đoàn Giỏi.

  • MAI NINHTrong khoảng giữa buổi chiều thăm viếng cơ sở và dạ tiệc, tôi chạy về nhà thay quần áo. Dưới vòi nước ấm, tôi nao nao xúc động nhớ lại từng khuôn mặt bạn bè. Ngoài một hai người thỉnh thoảng gặp nhau nhờ ở lại nơi này sau khi tốt nghiệp, còn hầu hết thì sau một phần tư thế kỷ đã qua đi, bây giờ mới tái ngộ. Làm sao không ngẩn người trước những tên bạn ngày xưa mặt mũi căng hồng tí tửng nhố nhăng, giờ đây làn da gấp nếp, râu ria đạo mạo, ra dáng sếp lớn sếp nhỏ cả rồi. Và dấu chân chim của thời gian càng rõ rệt hơn nữa, nơi những cô đầm bạn gái của tôi.

  • MAI NINH- Rối, Rối ơi! Dậy đi nào. - Nằm mãi đây cũng đừng hòng có ai lượm xác đem chôn. - Dậy đi! Rối ơi.

  • ANH DƯƠNGCòn sống đến nay, ông tôi phải hơn trăm tuổi. Trước ngày chết, ông kể cho tôi câu chuyện thương tâm này.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG1. Từ Huệ nằm thiêm thiếp bên cạnh án thư. Tóc râu chàng bạc trắng. Đêm qua, ngoài trời mưa gió to quá. Chàng không làm sao ngủ được. Từ Huệ sợ mưa, sợ phải nghe thấy những âm thanh cuồng nộ của trời đất. Điệu luân vũ ấy là nỗi ám ảnh khi chàng còn là một anh khóa vô danh.