Người xa xứ ngóng lòng về Huế

10:24 10/02/2010

TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ

Có lẽ bởi một nỗi nhớ về Huế, nhớ về cội nguồn - nơi mình đã được sinh ra và được nuôi dưỡng trong những tháng năm dài khốn khó của đất nước, lại được nuôi dưỡng trong điều kiện thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt. Khi đã mưa thì mưa cho đến thúi trời thúi đất: “Nỗi niềm chi rứa Huế ơi/ Mà mưa xối xả trắng trời Trị Thiên…” (Tố Hữu). Và khi đã nắng thì nắng cho nẻ đầu, nẻ óc, nắng cho đến khi gió Lào nổi lên thổi cháy khô trời thì mới thôi.

Những kẻ đành dứt lòng với Huế dù bất kỳ hoàn cảnh và lý do nào khi mỗi lần nhắc đến quê “miềng” đều là thương, là nhớ là thế. Người từ các miền quê khác nhau của mảnh đất Thừa Thiên Huế khi đi đến một quê hương mới, tự nhiên họ đều có một tên gọi chung: Dân Huế, Người Huế. Và còn một nỗi niềm riêng chung là: Nhớ Huế! Có lẽ, bởi một nỗi niềm nhớ đau đáu về quê hương mà bà con “miềng” khi xa xứ cứ ao ước gặp nhau là thôi thì đủ thứ chuyện hàn huyên về quê miềng, như được gãi đúng chỗ ngứa của nhau, họ sung sướng nghe lại tiếng nhà “miềng” chay… không lai tạp. Lại nữa, được thưởng thức những món ăn rặt chất Huế, được ăn những tô bún bò giò heo cay đến điếc óc điếc tai... Có lẽ, bởi thế mà bà con xứ Huế cứ đau đáu, ước mong sao có một tổ chức, một hội quê hương để mà có chỗ trút bớt nỗi niềm thương nhớ ấy.

Thành lập từ năm 1990, Hội đồng hương Thừa Thiên Huế (HĐHTTH) của hai huyện Bảo Lộc, Bảo Lâm (Lâm Đồng) những ngày đầu mới chỉ vỏn vẹn 8 thành viên, sau gần hai mươi năm, đã có đến hơn 610 thành viên nữa tham gia hội nhập với 20 chi hội sinh hoạt. Từ một tổ chức tự nguyện, đáp ứng tâm tư nguyện vọng bức thiết cuả bà con xa xứ, Hội đã có những hình thức sinh hoạt mang đậm tính văn hoá truyền thống cao đẹp.

Lể hội đền Hùng ngày mồng mười tháng ba hàng năm là một hoạt động văn hoá cao, một nét đặc trưng cũng như niềm tự hào của bà con Hội đồng hương Thừa Thiên Huế tại Bảo Lộc. Trong không khí mang mang đất trời của cao nguyên đang vào Xuân, trong không khí linh thiêng trầm hùng của lễ dâng hương tại đền Hùng, nguyện cầu cho Quốc thái dân an, tâm nguyện cuả bà con HĐHTTH cũng là tâm nguyện chung của tất cả những người dân đang làm ăn sinh sống trên vùng đất cao nguyên này, họ đều cầu mong được sống trong cảnh thái bình, thịnh vượng, được thương yêu nhau trong tình chòm xóm, được hướng về với quê hương, gốc rễ tâm linh.

Tiếp xúc với ông Trần Duy Tráng - Hội trưởng đương nhiệm của HĐHTTH, ông tỏ ra rất vui mừng khi trong năm nay, số người tham gia vào hội đông hơn. Với những việc đã làm được trong gần hai mươi năm qua là những thành tích đáng khích lệ, đáng tự hào.

Khi tôi hỏi về những tiêu chí cuả hội, ông vội vào nhà trong đem ra một bức hình, theo ông thì đó là biểu tượng kỷ niệm 20 năm thành lập hội. Tôi nhìn kỹ thì ra đó là một bức hình chụp cầu Trường Tiền ở phía dưới, phía trên in chữ Đức và chữ Tâm bằng Hán tự, dọc hai bên khung hình là hai dòng chữ “Kỷ niệm hai mươi năm thành lập hội…”. ông lại cho tôi xem quyển sổ có ghi tên các hội viên tham gia và nhiều chi tiết thú vị khác nữa. Chia tay trong tình cảm nồng ấm, ông nói: Mặc dù không thể tránh khỏi những niềm vui nỗi buồn trong việc điều hành hoạt động hội, nhưng tôi vẫn tâm đắc nhất là hoạt động khuyến học, trong những năm qua đã cho một kết quả tốt, đó như là lời động viên tích cực cho con em mình cố gắng học hành, học vì tương lai và vì sự hãnh diện cho quê hương... Vâng, tôi nói thêm: Đó chính là sự đầu tư khôn ngoan nhất, và đó cũng là sự thể hiện tấm gương hiếu học của người Huế xưa nay.

Đến với HĐHTTH là đến với một tổ chức mang tính tinh thần, một hoạt động có tính văn hoá truyền thống dựa trên những ước vọng, những khao khát của bà con xa xứ. Đúng như tiêu chí được ghi trên tấm hình kỷ niệm có chữ Tâm đứng trên cùng, ước muốn của mọi người phải có Tâm trong việc này, cụ thể là những công việc tổ chức, đóng góp, xây dựng và phát triển cho hội, cho một tổ chức mang tính tinh thần như thế thì… quả là khó! Ông tâm sự: - “Việc này thì không cần giỏi, chỉ cần người có tâm là làm được”… Riêng tôi thì chỉ đồng ý với ông có một nửa. Bởi con số trên 2000 người dân Thừa Thiên Huế đang làm ăn sinh sống bằng mọi ngành nghề trong khu vực này mà con số tham gia chỉ chiếm khoảng 1/3 trong vòng gần hai mươi năm qua thì số 2/3 còn lại cũng còn nhiều lý do tế nhị cần quan tâm. Để có được một tổ chức mang tính chất như trên, và nhất là mang tính văn hoá truyền thống có bề dày lịch sử như thế thì chắc chắn cần hội tụ rất nhiều yếu tố. “Mang hồn quê hương đến một quê hương”, tuy không phải là cần kỳ vọng lắm, nhưng có mang được nhiều hay ít thì yếu tố đầu tiên phải là khả năng con người, những con người thấm đẫm văn hoá truyền thống, có mang một tập quán đến nơi mình sống, như hơi thở, và dĩ nhiên là yêu Huế, thật yêu… thì đó cũng là tấm lòng rồi còn gì nữa?!

Thiển nghĩ, có được như thế thì sự hấp dẫn mời gọi sẽ tăng lên trong tính thuần khiết, một tổ chức không mang đậm màu hình thức, thậm chí bị thương mại hoá. Đó cũng là một lý do trong muôn vàn lý do mà tôi được biết. Còn rất nhiều người “dân Huế”, Huế roòng hiểu và yêu Huế đến cháy lòng mà vẫn chưa tìm được đến với nhau, đến với hội, trong nỗi niềm thân thương của người xa xứ.

Chỉ vài nét trong khuôn khổ hoạt động của bà con xa Huế không thể nói hết những nỗi lòng và đóng góp của họ đến với Huế. Chắc chắn, ở mọi khía cạnh, mọi ngành nghề thì họ vẫn hướng về Huế, vẫn theo từng bước chân yêu kiều tôn nữ mà để thương, để lo, để mừng và để mà tự hào… miềng là dân Huế!

Lại một mùa xuân nữa sắp về trên cao nguyên bạt ngàn chè xanh của Bảo Lộc, Bảo Lâm, Di Linh… trong làn gió ngát hương của hoa cà phê nở sớm, tôi chợt nghe một giọng ai quen quen ngọt lịm “Nì, mi có đi họp hội đồng hương không rứa? Nhớ năm mô tau mần một tô bún bò giò Heo ngon dễ sợ!...”

Chỉ một tiếng Huế thôi, tiếng trọ trẹ thân thương nghe giữa lòng cao nguyên vừa quen, vừa lạ, mà chợt đâu đó những kỷ niệm của quê hương bất chợt ùa về, một giọng ngâm của Tô Kiều Ngân như níu chúng ta về lại gần Huế hơn.

 Khi mô anh về thăm Huế xưa
Nhớ gói giùm em một chút mưa
Gói thêm cái lạnh vào trong tóc…   


Vâng, tất cả rồi sẽ đổi thay. Chỉ có một tấm lòng, tấm lòng của những người con xứ Huế vẫn còn đó, để còn mãi ngóng về chốn cố đô xưa…

Cuối đông năm kỷ Sửu.

T.G.N.M.Q

(252/02-2010)





 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Sau ba năm đi giang hồ Trung Quốc. Nguyễn Du trở về, ở tại Thăng Long từ cuối năm 1790 cho đến năm 1794. Đó là ba năm «Chữ tình chốc đã ba năm vẹn», lưu lại trong Lưu Hương Ký của Hồ Xuân Hương.

  • Báo Tin Tức Chúa Nhựt, 3.11.1940 mở đầu bằng mấy hàng như sau: “Hai mươi chín tháng Chín Annam (20 Octobre 1940). Thêm một ngày đáng ghi nhớ. Một người đã mất: cụ Sào Nam Phan Bội Châu

  • Với giọng văn sinh động, pha chút hài hước, hình minh họa ngộ nghĩnh, phù hợp với lứa tuổi học trò: “Chuyện kể về thầy trò thời xưa”, “Những tấm lòng cao cả” hay bộ văn học teen “Cười lên đi cô ơi”… sẽ đem đến cho độc giả nhiều cung bậc cảm xúc và hoài niệm.

  • Trong tất cả các Ni sư Phật giáo mà tôi được biết và chịu ơn hoằng pháp vô ngôn, có lẽ người gần gũi với tôi nhất trong đời là Cố Đại Trưởng lão Ni chúng – Sư Bà Cát Tường - nguyên trụ trì chùa sư nữ Hoàng Mai ở Thủy Xuân – Huế.

  • LTS: Nhà thơ, nhà văn Thanh Tịnh năm 78 tuổi sức khỏe không còn như buổi thanh niên, nhưng ngòi bút của ông vẫn còn cái sung sức của một người đã từng yêu du lịch và làm nghề hướng dẫn khách du lịch toàn Đông Dương. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc những trang hồi ký đầy lý thú của Thanh Tịnh.

  • NGUYỄN XUÂN HOA

    Tôi không có dịp được học với thầy Phạm Kiêm Âu, người thầy nổi tiếng ở Huế, nhưng lại có cơ duyên cùng dạy ở trường nữ trung học Đồng Khánh với thầy trong các năm 1974 - 1975.

  • Vậy là nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh đã về cõi thiên thu giữa một sáng mùa thu Hà Nội lay phay gió mù u!...Trước khi chưa kịp được vuốt mắt, dường như đôi đồng tử của ông vẫn còn lưu giữ lại hình ảnh đau đáu về con sông Cụt quê nhà.

  • Với một tướng lãnh võ biền, thì mục tiêu cuộc dẹp loạn là đánh tan loạn quân, rồi ca khúc khải hoàn, ăn mừng chiến thắng.

  • PHÙNG TẤN ĐÔNG

    Đời của nó như thể bềnh bồng
    Cái chết của nó như thể an nghỉ

                               F.Jullien
    (Dẫn nhập cuốn “Nuôi dưỡng đời mình - tách rời hạnh phúc” - Bửu Ý dịch, 2005)

  • THANH TÙNG

    Hiệp định Genève ký kết, sông Bến Hải tưởng chỉ là giới tuyến tạm thời, không ngờ đã trở thành ranh giới chia cắt đất nước Việt Nam hơn 20 năm. Nỗi đau chia cắt và biết bao câu chuyện thương tâm, cảm động đã diễn ra ở đôi bờ Hiền Lương kể từ ngày ấy. Nhiều cuộc tình đẫm máu và nước mắt. Có những đôi vợ chồng chỉ ở với nhau đúng một đêm. Có người chồng Bắc vợ Nam, khi vợ được ra Bắc thì chồng lại đã vào Nam chiến đấu, đời vợ chồng như chuyện vợ chồng Ngâu.

  • Thưởng thức là ngưỡng cửa của phê bình. Chưa bước qua ngưỡng cửa ấy mà nhảy vào cầm bút phê bình thì nhất định mắc phải những sai lầm tai hại. Không còn gì ngượng bằng đọc một bài người ta đem dẫn toàn những câu thơ dở và những câu ca dao dở mà lại đi khen là hay”. (Vũ Ngọc Phan, trích từ Hồi ký văn nghệ, tạp chí Văn Học, Hà Nội, số 4 năm 1983, trang 168).

  • VƯƠNG TRÍ NHÀN

    I
    Hè phố Hà Nội vốn khá hẹp, chỉ có điều may là ở cái thành phố đang còn lấy xe đạp làm phương tiện giao thông chủ yếu này, người đi bộ có phần ít, phía các phố không phải phố buôn bán, vỉa hè thường vắng, bởi vậy, nếu không quá bận, đi bộ lại là cái thú, người ta có thể vừa đi vừa nghỉ, thoải mái.

  • Gặp người thư ký của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm xưa, tôi có dịp biết thêm những tình tiết mới quanh câu chuyện hơn 30 năm về trước khi tiểu thuyết “Búp sen xanh” của nhà văn Sơn Tùng được tái bản lần đầu.

  • THẾ TƯỜNG
                   

    "Quê hương là chùm khế ngọt
    cho con trèo hái cả ngày"

  • Một nhà báo Pháp sắp đến Việt Nam để tìm lại một di sản chiến tranh, nhưng ở một khía cạnh nhân văn của nó - đó là những con người, địa điểm từng xuất hiện trong các bức ảnh mà nữ phóng viên chiến trường nổi tiếng Catherine Leroy ghi lại trong cuộc tấn công Mậu Thân vào thành phố Huế. 

  • Thanh Minh là bút danh chính của Nguyễn Hưu(1), người làng Yên Tập, tổng Phù Lưu, huyện Can Lộc, nay là xã Tân Lộc, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh.

  • LTS: Nhà văn Lan Khai tên thật là Nguyễn Đình Khải, sinh năm Bính Ngọ 1906 ở Tuyên Quang, song lại có gốc gác dòng họ Nguyễn ở Huế. Ông nổi tiếng trên văn đàn Việt Nam từ những năm 1930 - 1945, được mệnh danh là “nhà văn đường rừng”, để lại hàng trăm tác phẩm văn học, trong đó có gần 50 cuốn tiểu thuyết.

  • Thực tế lịch sử gần 70 năm qua đã khẳng định rằng Cách mạng Tháng 8 năm 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là kết quả của hành trình 30 năm tìm đường cứu nước của Bác Hồ và là kết quả tất yếu từ công lao to lớn của Bác chuẩn bị cho việc tiến hành cuộc cách mạng giải phóng kể từ ngày Bác về nước.

  • Tháng Bảy âm. Tháng cô hồn. Mồng một âm đã rả rích mưa báo hiệu cho một tháng âm u của Tiết Ngâu. Sắp rằm, tâm trí chợt như hửng ấm khi tiếp được cái giấy Hà Nội mời dự lễ khánh thành nhà bia và Khu tưởng niệm đồng bào ta bị chết đói năm 1945. Chợt nhớ, công việc này đã manh nha từ hơn mười năm trước…

  • LTS: Nguyễn Hưu, bút danh Thanh Minh, sinh năm 1914, quê huyện Can Lộc, hoạt động báo chí và văn học từ những năm 1934 - 1935. Ông là nhà báo, nhà thơ, dịch giả Hán - Nôm, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, nhà quản lý văn hóa văn nghệ có nhiều thành tựu và cống hiến. Ông là Hội trưởng Hội văn nghệ Hà Tĩnh đầu tiên. Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông [21.8], VHNA sẽ lần lượt đăng một số bài viết về ông.