Người quê hòa nhập với hồn quê

10:16 09/03/2010
THÁI DOÃN HIỂUNgô Văn Phú là thi sĩ của đồng quê. Anh có thể viết nhiều đề tài như xây dựng, chiến tranh, lịch sử, tình yêu..., nhưng như lá rụng về cội, ngược về nguồn, Ngô Văn Phú trở lại nơi làng quê yêu dấu với một tình yêu bẩm sinh, yêu đến tận cùng gốc rễ như Nêruđa đã viết.

Nhà thơ Ngô Văn Phú - Ảnh: evan.vnexpress.net

Ngô Văn Phú xem quê hương là mẹ hiền. Tình cảm đó mạnh hơn mọi lý lẽ ở đời. Nó là sự tột cùng của dòng máu chảy, là nhân tố kích thích sâu sắc và đẹp đẽ nhất để anh tạo tác ra thơ. Vâng, ai có thể quên được nơi chôn nhau cắt rốn, nó luôn đau đáu hiện diện trong trái tim mình.

Quê anh là vùng bán sơn địa "Núi ngồi núi đứng, núi trầm tư/ Trong mây kia núi đá đang mơ", với cọ già, cọ non, cọ ngồi, cọ đứng, cọ nghiêng, với bạt ngàn hương chè, hương ổi, hương cau, hương cỏ mật, "thơm hồn tre nứa".

Đó là một cõi đi về để thương để nhớ, để gửi gắm cả đời mình. Ngô Văn Phú đã dành trọn thủy chung với làng quê thôn ổ.

Anh yêu da diết, cảm nhận được cái rùng mình của cành cọ, nhớ được "mắt cây thì sáng, tiếng gà thì xanh". Anh "chạm má chạm vai" trong lễ hội tắt đèn với lớp trẻ. Anh cà rỡn với chú tễu. Anh bỡn cợt với thầy cô Cóc. Anh tinh quái thuật lại đám cưới chuột. Anh kể về linh hồn của dân tộc trong lễ hội mùa xuân dưới ánh trăng xưa, những chuyện cổ thần kỳ Tiên Dung Chử Đồng Tử. Anh nhận chân được giá trị vĩnh hằng của tranh Đông Hồ. Anh quan tâm đến điếu cày, chim cun cút, phố huyện, mặt chữ điền, vai áo vá, cơm đồng, bạn trà chân đất. Anh rộn ràng với "Nhà nhà gặt hái vui như tết/ Liềm hái rào rào từ tinh mơ", cùng tất bật với những bữa cơm ngoài đồng "ăn uống rào rào theo kiểu thợ". Anh thông cảm sâu sắc với số phận người nông dân "Họ lo lắng, lưng còng, lụ khụ/ Dốc sức cả đời cho hạt lúa", đem đối  sánh "Phố phường lộng lẫy như tiên cả/ Chỉ đám nhà nông vất vả thôi" để cảm thương. Anh viết về người đàn bà gánh rau lang ra chợ bán được mấy đồng tiền còm " Tay chị cầm lăm lẳm/ Đồng bạc thấm mồ hôi". Anh trân trọng viết về làng đồi, làng hạ làng đông, về giấc ngủ thanh thản của chàng trai làng sau buổi cày. Anh còn viết về Mẹ, Chị tôi, Dượng tôi, về lão du kích, với giọng kể thật xót xa đến ngậm ngùi... Anh thích thú với cái trò "Trai trao, gái đón, trời ơi, mắt/ Trái cấm hình sau giải yếm đào". Anh ngửng đầu lên ngắm "Cơn mưa nghịch ngợm làm vua bầu trời". Anh lo lắng đến trân trọng "nhịp tim mẹ vẳng trong trời sấm".Anh khát uống "chim no tiếng hót trĩu chùm nhạc". Anh lắng lòng để xem "nhạc mưa trên cọ có thừa tiếng vang". Anh tìm hiểu vì sao "tiếng chim kêu đục dòng sông trắng". Anh náo nức với hội làng "tiếng chiêng đè tiếng trống". Anh hòa mình vào trong "câu hát tuổi dậy thì đỏng đảnh". Anh cảm thức được hồn dân tộc "Mà sao năm tháng trên tranh tết/ Tiếng trống vinh quy vẫn rộn ràng" Anh "thấy" được "Hương dừa bay thấu qua đêm/ Hoa cau bay đến tận thềm mới rơi". Anh nhập thân vào trong cô gái làng vườn "Ước gì gioi hóa thành roi/ Để em vụt chết cái người vô duyên". Anh có những ước mơ muốn trẻ con như cổ tích "Ước chi cây hóa ra người/ Để xem cây khóc, cây cười ra sao". Anh hiểu được giá trị của lao động một nắng hai sương "Bàn tay đến chết còn thơm hương đồng". Anh dỏng tai lắng lời bà kể "Con sâu cái kiến có linh hồn". Anh tinh tế nhận ra được "Quả sim chín chậm thơm đầu ngón tay". Anh pha trò rất có duyên: "Ở đây trai gái là trên hết/ Nên trên mặt gỗ cũng tình tang". Anh ngạc nhiên đến bất ngờ trước mấy con tắc kè "Đã chết cứng trong bình rượu thuốc/ Mắt còn thô lố vẫn chưa tin". Giao đãi với thiên nhiên, anh nhìn thật sâu lắng "Nắng hôn lên gió, gió hôn nắng/ Nên mới lung linh ở lá nhành". Anh hồn nhiên ríu rít như trẻ nhỏ đi chợ tết; anh e thẹn một cách trinh bạch như những đôi lứa khi ngập vào hồn đêm trong Hội tắt đèn.

Sự hôn phối giữa hồn người và ngoại cảnh, xôn xao âm hưởng dân gian, vang ngân giai điệu núi đồi trong trẻo, hồn hậu, say đắm tiếng trống chiêng, điệu xòe, vang ngân giai điệu đồng quê, nhịp sống cần lao. Ở đó có những tập tục - thứ luật pháp bất thành văn mà cha ông nghìn đời tự giác tuân thủ, những phép ứng xử, những rung cảm đồng điệu, thuần phác đến sởi lởi, thắm đượm tình người chân đất "Người quê hòa nhập với hồn quê"

Vì sao Ngô Văn Phú lại sống hết mình được như vậy ở làng quê? Anh bảo "Tôi cũng chính là họ mà thôi". Anh đúng là một nông dân chính tông! Có lần, nhà thơ tâm sự: "Lòng tôi không lúc nào nguôi ngoai về một quê hương mà từ khi  tôi chào đời đến nay, mảnh đất trung du đã trải qua bao nhiêu thử thách, vui buồn. Tôi gửi gắm vào thơ lòng yêu quê da diết nhất. Tôi buồn khổ với từng đám cọ cháy. Tôi vui với ánh trăng hò hẹn nhưng cũng phập phồng về những tiếng vạc khô héo chen ngang... Tôi viết theo sự thôi thúc của tâm hồn tôi. Tôi yêu, tôi mải mê với những phong tục tốt đẹp xưa, với những cô gái làng xinh đẹp mà cuộc đời ít có mấy ngày hạnh phúc" (Lời tựa Mặt trái xoan, 1993)

Còn gì sung sướng bằng khi được sống giữa lòng dân dã, hòa mình vào hoa cỏ, ao vườn, thôn mạc, núi non, khe suối, mây gió, chim thú... trò chuyện cùng nó như một người bạn. Thiên nhiên sẽ mở lòng ra làm nhuần nhị con người lại, làm ta giữ được nhân tính. Thiên nhiên cho ta vay mượn những điều huyền bí của nó để ta tha hồ mà bắt chước sáng tạo.

Thật chí lí khi Satôbriăng nói rằng: "Tạo hóa dường như buộc chân chúng ta vào quê hương bằng những sợ dây vô hình".

Ngô Văn Phú nối thơ mình với văn mạch dân tộc tạo dưỡng chất hô hấp cho tác phẩm. Nhà thơ đã hình thành được bản sắc đồng quê, diện mạo trung du, cốt cách trung du.

Cũng rất lạ là sống chủ yếu ở giữa đô thị lớn "hương đồng gió nội" không bay đi chút nào cả. Với phố xá mọc lên, anh còn dị ứng với đà tiến triển của văn minh đô thị (!?) Nếu còn sống, chắc Nguyễn Bính sẽ hài lòng với Ngô Văn Phú?

Sau Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ, Bàng Bá Lân, Ngô Văn Phú, thêm Trần Đăng Khoa nữa là người hoàn chỉnh bức tranh làng quê Việt Nam , nâng nó lên tầm cao.

Thơ tình của Ngô Văn Phú là thứ tình yêu nửa thực nửa mộng, lúc nào cũng giữ được trinh nguyên như mối yêu đầu, đậm đà hương vị dân gian, thoang thoảng như hương bưởi về khuya.

Co bùa mê là bài thơ tình hay tiêu biểu cho phong cách đó.

Ngô Văn Phú khai thác được nhiều nét ngộ nghĩnh dân dã trong khẩu ngữ, giàu chất ký, ngôn ngữ để mộc ít sơn phết, hồn nhiên như chính sự sống. Thơ anh dễ đồng cảm bởi nó ấm áp tình quê, tình đời, tình người.

Bên cạnh đó, nhược điểm dễ nhận trong thi phẩm của Ngô Văn Phú là đề tài hẹp, cắt nhỏ, tứ cũ, nhịp thơ đi phẳng lặng gây đơn điệu, có không nhiều lắm bài toàn bích cỡ như Tơ hồng và cúc tần, có không nhiều lắm những câu hỏi gây ấn tượng cỡ như:

            Áo em gom hết mùa thu chín
            Hồn phố dâng theo một giải vàng

                                                (Thu Vàng)

Anh thiên về tư duy hình tượng, thi hứng cụ thể cảm tính thì tươi mát, thấm, còn khi anh tư duy lôgíc, tư biện lý sự một chút thì khô, ít gây được cảm xúc thẩm mỹ (các bài Hoa trắng tình yêu, Con tàu trắng). Thơ Ngô Văn Phú viết ngắn thì đọng, viết dài doãng tứ ra ngay.

Thơ Ngô Văn Phú đậm đà chất tự truyện, nó là những bức chân dung tự họa của anh.

Xuất thân trong một gia đình dòng dõi nho học, Ngô Văn Phú đã tự học để có thể đọc Kinh thi, Luận ngữ, Đường thi, thơ chữ Hán của Tùng Thiện Vương trong nguyên bản. Anh biết tiếng Pháp để giao tiếp với văn hóa phương Tây làm lịch lãm cây bút của mình, hình thành nên bản lĩnh sáng tạo nghệ thuật riêng tránh những ảnh hưởng ngoại lai, pha tạp. Anh không bao giờ "lóa mắt trước những hình thức có vẻ mới nhưng không hợp với phủ tạng của mình".

Ngô Văn Phú là con người nhân hậu, thủy chung. Anh không giám cười to, không giám thở mạnh, biết ngà ngà chớ không say, nhỡ say thì giữ không mê. Hài hòa giữa tâm hồn với ngoại cảnh, giữa tư tưởng với hiện thực, cái đẹp của Ngô Văn Phú chứa trong sự giản dị, thanh khiết, hàm súc. Hồn thiêng đất nước ẩn náu trong Ngô Văn Phú. Thơ anh mang tầm văn hóa cộng đồng.

T.D.H
(132/02-2000)





 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết  dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH

  • MAI VĂN HOAN giới thiệuNăm 55 tuổi, Hồng Nhu từng nhiều đêm trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh gắn bó trọn hai mươi lăm năm với bao kỷ niệm vui buồn. Và cuối cùng anh đã quyết tâm trở về dù đã lường hết mọi khó khăn đang chờ phía trước. Nếu không có cái quyết định táo bạo đó, anh vẫn là nhà văn của những thiên truyện ngắn Thuyền đi trong mưa ngâu, Gió thổi chéo mặt hồ... từng được nhiều người mến mộ nhưng có lẽ sẽ không có một nhà văn đầm phá, một nhà thơ “ngẫu hứng” như bây giờ.

  • LÊ HỒNG SÂMTìm trong nỗi nhớ là câu chuyện của một thiếu phụ ba mươi tám tuổi, nhìn lại hai mươi năm đời mình, bắt đầu từ một ngày hè những năm tám mươi thế kỷ trước, rời sân bay Nội Bài để sang Matxcơva du học, cho đến một chiều đông đầu thế kỷ này, cũng tại sân bay ấy, sau mấy tuần về thăm quê hương, cô cùng các con trở lại Pháp, nơi gia đình nhỏ của mình định cư.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     (Đọc “Cạn chén tình” - Tuyển tập truyện ngắn Mường Mán, NXB Trẻ, 2003)Với gần 40 năm cầm bút, với hơn hai chục tác phẩm văn xuôi, thơ và kịch bản phim, nhà văn Mường Mán là một tên tuổi đã quen thuộc với bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ. Có lẽ vì ấn tượng của một loạt truyện dài mà ngay từ tên sách (Lá tương tư, Một chút mưa thơm, Bâng khuâng như bướm, Tuần trăng mê hoặc, Khóc nữa đi sớm mai v...v...) khiến nhiều người gọi ông là nhà văn của tuổi học trò, trên trang sách của ông chỉ là những “Mùa thu tóc rối, Chiều vàng hoa cúc...”.

  • NGUYỄN VĂN HOATranh luận Văn Nghệ thế kỷ 20, do Nhà xuất bản lao động ấn hành. Nó có 2 tập: tập 1 có 1045 trang và tập 2 có 1195 trang, tổng cộng 2 tập có 2240 trang khổ 14,4 x 20,5cm. bìa cứng, bìa trang trí bằng tên các tờ báo, tạp chí có tư liệu tuyển trong bộ sách này.

  • VĨNH CAO - PHAN THANH HẢIVườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Nhưng do những nguyên nhân lịch sử, khu vườn này đã bị triệt giải từ đầu thời vua Ðồng Khánh (1886-1889) và để trong tình trạng hoang phế mãi đến ngày nay. Trong những nỗ lực nhằm khắc phục các "không gian trắng" tại Tử Cấm Thành và phục hồi các khu vườn ngự của thời Nguyễn, từ giữa năm 2002, Trung tâm BTDTCÐ Huế đã phối hợp với Hội Nghệ thuật mới (Pháp) tổ chức một Hội thảo khoa học để bàn luận và tìm ra phương hướng cho việc xây dựng dự án phục hồi khu vườn này.

  • HỒNG DIỆUNhà thơ Cao Bá Quát (1809-1854) được người đời hơn một thế kỷ nay nể trọng, với cả hai tư cách: con người và văn chương. "Thần Siêu, thánh Quát", khó có lời khen tặng nào cao hơn dành cho ông và bạn thân của ông: Nguyễn Văn Siêu (1799-1872).

  • HÀ VĂN THỊNHI. Có lẽ trong nhiều chục năm gần đây của lịch sử thế giới, chưa có một nhà sử học nào cũng như chưa có một cuốn sách lịch sử nào lại phản ánh những gì vừa xẩy ra một cách mới mẻ và đầy ấn tượng như Bob Woodward (BW). Hơn nữa đó lại là lịch sử của cơ quan quyền lực cao nhất ở một cường quốc lớn nhất mọi thời đại; phản ánh về những sự kiện chấn động nhất, nghiêm trọng nhất đã diễn ra trong ba năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới: sự kiện ngày 11/9, cuộc chiến tranh Afganistan và một phần của cuộc chiến tranh Iraq.

  • ĐẶNG TIẾN     (Đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)Một tờ báo ở ngoài nước đã giới thiệu bốn cuốn hồi ức của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp mới xuất bản. Dĩ nhiên là một bài báo không thể tóm lược được khoảng 1700 trang hồi ký viết cô đúc, nhưng cũng lảy ra được những đặc điểm, ý chính và trích dẫn dồi dào, giúp người đọc không có sách cũng gặt hái được vài khái niệm về tác phẩm.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO       (Đọc tập truyện ngắn “Trà thiếu phụ” của nhà văn Hồng Nhu – NXB Hội Nhà văn 2003)Tôi đã được đọc không ít truyện ngắn của nhà văn Hồng Nhu và hầu như mỗi tập truyện đều để lại trong tôi không ít ấn tượng. Trải dài theo những dòng văn mượt mà, viết theo lối tự sự của nhà văn Hồng Nhu là cuộc sống muôn màu với những tình cảm thân thương, nhiều khi là một nhận định đơn thuần trong cách sống. Nhà văn Hồng Nhu đi từ những sự việc, những đổi thay tinh tế quanh mình để tìm ra một lối viết, một phong cách thể hiện riêng biệt.

  • ĐỖ QUYÊN…Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa…

  • LÊ THỊ HƯỜNGTrong căn phòng nhỏ đêm khuya, giai điệu bản sonat của Beethoven làm ta lặng người; một chiều mưa, lời nhạc Trịnh khiến lòng bâng khuâng; trong một quán nhỏ bên đường tình cờ những khúc nhạc một thời của Văn Cao vọng lại làm ta bất ngờ. Và cũng có thể giữa sóng sánh trăng nước Hương Giang, dìu dặt, ngọt ngào một làn điệu ca Huế khiến lòng xao xuyến.

  • NGÔ MINHĐến tập thơ chọn Giếng Tiên (*), nhà thơ - thầy giáo Mai Văn Hoan đã gửi đến bạn yêu thơ 5 tập thơ trữ tình, trong đó có hai tập thơ được tái bản. Đó là tập đầu tay Ảo ảnh, in năm 1988, tái bản 1995 và tập Hồi âm, in năm 1991, tái bản năm 2000. 15 năm xuất bản 7 đầu sách (2 tập tiểu luận) và đang có trong ngăn kéo vài tập bản thảo tiểu luận nữa, chứng tỏ sức sáng tạo sung mãn đáng nể trọng của một thầy giáo vừa dạy học vừa sáng tác văn chương.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO        (Đọc tập thơ ''Độc thoại trước mặt trời'' của Trần Lan Vinh- NXB Văn học Hà Nội- 2003)Trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại, sự thiếu vắng những cây bút nữ đã trở thành một vấn đề cần được chú trọng. Hầu như mỗi khi phụ nữ cầm bút, điều họ quan tâm nhất đó là sự giải bày tâm sự với ngàn ngàn nỗi niềm trắc ẩn. Nếu viết là một cách để sẻ chia tâm sự thì Trần Lan Vinh là một trường hợp như thế.

  • NGUYỄN THANH TÚMùa đông năm ngoái, anh Đoàn Tuấn từ Hà Nội vào Huế giảng dạy lớp đạo diễn điện ảnh. Dù công việc khá bận rộn nhưng anh vẫn dành cho tôi không ít thời gian tâm sự, bởi ngoài tình cảm thân thiết anh còn là cấp trên của tôi ở toà soạn tạp chí Thế Giới Điện Ảnh. Trong những lần trò chuyện ấy, tôi thật sự bất ngờ khi nghe anh kể chuyện về cuốn sách anh sắp in ở Nhà xuất bản Trẻ mà nội dung của nó là câu hỏi hơn 20 năm nay vẫn luôn canh cánh trong tôi. Vốn dĩ Đoàn Tuấn là nhà biên kịch điện ảnh tên tuổi, anh đã có nhiều kịch bản phim nổi tiếng như: Chiếc chìa khoá vàng (1998), Ngõ đàn bà (1992), Đường thư (2003)...

  • MAI VĂN HOANNguyễn Khoa Điềm đến với thơ hơi muộn nhưng đã sớm định hình một phong cách riêng. Qua các tập Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007) ta bắt gặp những suy ngẫm của anh đối với nhân dân, đất nước; những chiêm nghiệm của anh về đời sống xã hội, nhân tình thế thái. Những chiêm nghiệm và suy ngẫm đó được thể hiện bằng một giọng thơ trầm tĩnh, bình dị, sâu lắng và khá hiện đại.

  • NGUYỄN QUANG HÀ       (Đọc Nỗi niềm để ngỏ của Lê Lâm Ứng - Nhà xuất bản Văn học 2002)Đọc thơ Lê Lâm Ứng để tìm những câu mượt mà thì hơi khó. Thảng hoặc lắm mới bắt gặp ở anh tâm trạng thư thái này:                Biết rằng trong cõi nhớ thương                Lạc nhau âu cũng lẽ thường vậy thôi

  • MAI VĂN HOANNguyễn Đắc Xuân không chỉ có chân trong Hội Nhà văn Việt Nam mà anh còn là hội viên Hội Lịch sử Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam... Nhưng dù ở cương vị nào thì điều mà anh tâm huyết nhất vẫn là lịch sử và văn hóa Huế.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG   (Nhân đọc sách "Gió về Tùng Môn Trang" của Nguyễn Xuân Dũng)Tác giả cuốn sách này là một võ sư đệ bát đẳng huyền đai thuộc phái không thủ đạo, vừa là một nhà hoạt động thương trường nổi tiếng ở Mỹ. Nhưng cuốn sách này không hề bàn đến chuyện đấm đá hơn kém hoặc là chuyện mua bán lời lỗ mà bàn về cái TÂM. Tác giả tỏ ra hết sức chú trọng vũ đạo; nhất cử nhất động đều phải xuất phát từ cái TÂM, cái TÂM viết hoa.

  • TRẦN THUỲ MAI            (Đọc Uẩn khúc, tiểu thuyết của Hoàng Văn Bàng, NXB Thuận Hoá 2002)Câu chuyện xảy ra ở một vùng quê không xa lắm, với một tầm mức tai hại không lớn, gây một ảnh hưởng mới xem qua tưởng chừng không đáng kể. Một ông trưởng phòng ở huyện tham ô vài chục triệu thì đã thấm gì so với những câu chuyện động trời hàng ngày trên các báo, mà thủ phạm mang những chức tước lớn lao hơn, với những số tiền khổng lồ tới hàng nghìn tỉ!