Người hát rong của thời đại

10:20 22/11/2019

NGUYỄN QUANG THIỀU

Khi đọc xong bản thảo trường ca Nàng, quả thực trước đó tôi không hình dung có một trường ca như vậy được viết trong thời đại hiện nay.

Ảnh: internet

Lý do thật đơn gian bởi vì: đó là một trường ca viết theo thể lục bát, một thể thơ quá quen thuộc nhưng lại rất ít nhà thơ đương đại sử dụng với một mật độ nhiều trong sáng tác của mình và đặc biệt viết cả một trường ca với thể loại này. Hơn nữa, chính vì sự quen thuộc của thể loại mà nó luôn luôn đặt ra thách thức quá lớn cho tất cả các nhà thơ đương đại. Và bởi vì: trường ca đó viết lại về những vẻ phong tục, tập quán từng vùng miền, về ca dao dân ca, truyền thuyết, địa danh lịch sử và văn hóa, về những điển tích, điển cố, về cả những món ăn ngon, những sản vật muôn đời, rồi về chuyện người nay gợi chuyện người xưa, chuyện vui lại nhớ chuyện buồn, chuyện hợp mà lòng lại man mác chuyện tan, chuyện của cái hữu hạn để nói về cái vô hạn, chuyện của một người để nói chuyện muôn người… Nhiều nội dung mà tôi đề cập dễ làm cho những câu thơ mang tính kể chuyện này rơi vào đơn giản thậm chí nôm na. Nhưng nhà thơ Nguyễn Thụy Kha đã vượt qua được những thách thức ấy và mang đến thêm một sắc thái của lục bát đương đại.

Tôi thực sự nghĩ rằng, trường ca Nàng là một cuộc hành hương thơ trở về những vùng “đất thánh văn hóa Việt”. Đó là những vùng đất mà không ít những vẻ đẹp và sự thiêng liêng của đời sống trên xứ sở này đã làm nên văn hóa Việt giờ đang biến mất hoặc chìm khuất đâu đấy. Và cuộc hành hương văn hóa này đã góp phần đánh thức một phần những vẻ đẹp và thiêng liêng ấy. Mỗi dòng thơ tôi đọc và thấy hiện dần lên hình ảnh Người hát rong Nguyễn Thụy Kha vừa giang hồ vừa mê đắm. Người hát rong ấy đã đi bằng những bước chân của ngôn từ thi ca từ những ngọn núi cao phía bắc về tận vùng sông nước miền tây. Mỗi bước chân Người hát rong bước đi là mỗi câu chuyện, là mỗi lời ca vang lên giản dị và đẹp đẽ.

Hình thức hát rong đã có từ xa xưa và đó là hình thức kể chuyện thơ của nhiều thi sĩ ở hầu hết các dân tộc trên thế giới. Và trong trường hợp cụ thể mang tên Nguyễn Thụy Kha thì thể thơ lục bát có lẽ là sự lựa chọn chính xác nhất cho cuộc hành hương văn hóa này. Một điều quan trọng mà tôi cảm thấy và nhận thấy là trong những câu thơ lục bát hiện đại của Người hát rong này lại chứa đựng các yếu tố của hát xẩm, của ca trù, của chèo, của hát dặm, của hò miền trung, của các điệu lý… Người ta có thể hát những câu thơ trong trường ca này theo các làn điệu dân ca của các vùng miền trên đất nước Việt Nam:

Ví như:

lặng câm đá nói từng câu
cô đơn giữa những bạc đầu triều dâng


Ví như:

khói bay nghiêng ngả nhà sàn
ai mang ống nước đổ tràn hoang sơ


Ví như:

ngẩng đầu trước biển mênh mông
bao thời vua vẫn một sông Bạch Đằng


Ví như:

ai về Vĩ Dạ đợi thuyền
ta về dưới mái chùa thiêng đợi nàng

Ví như:

... .... ...  

Những câu lục bát như thế vang lên thực sự là những câu lục bát hay, mới mẻ, đầy sáng tạo với sức khái quát và gợi mở rộng lớn. Nhưng lại cuốn tôi vào những xênh phách, những đàn sáo, những áo khăn mớ ba mớ bảy, những gốc đa, quán nước, sân đình, những chợ phiên, những ngựa xe dập dìu, những hội những hè, những sông sông nước nước... Tất cả những điều ấy đã làm lên hồn cốt của mảnh đất này. Và Người hát rong Nguyễn Thụy Kha đã và đang đi trên con đường hành hương trở về nguồn cội văn hóa của mình. Với trường ca Nàng, nhà thơ Nguyễn Thụy Kha thực sự trở thành Người hát rong của thời đại mình.

N.Q.T
(TCSH368/10-2019)


NGUYỄN THỤY KHA

“Nàng”
       (Trích trường ca lục bát)

“Đường vô xứ Huế quanh quanh
non xanh nước biếc như tranh họa đồ”
nghe ca dao dạ ngẩn ngơ
dạ thưa giọng Huế nên thơ đa tình
tóc Hương Giang, ngực Ngự Bình
ai thở than những Nam Bình, Nam Ai
tuổi nàng bay trắng áo dài
con đò khuya khoắt ban mai chuông chùa
ngón tay ướt át mùa mưa
hàng mi ướt át thẫn thờ vào đâu
ngập ngừng chân bước qua cầu
nón nghiêng nghiêng giấu mái đầu đôi mươi
nép vào ta ấm nồng môi
tan vào nhau những lả lơi yêu kiều
sông Bồ buông tím ban chiều
ta bơi trong sóng liêu xiêu men tình
bồng bềnh thân xác bồng bềnh
chông chênh Bạch Mã chông chênh nụ cười
Phú Cam rượu đã rót mời
cạn ly lại rót rượu Truồi ngà say
nàng mười bảy sắc thơ ngây
cuốn ta vào giữa trời mây lững lờ
xui ta mê mẩn lú mờ
như lao vào lửa thành tro lụi tàn
theo ta ra tận Hà Thành
thầm thì những tiếng vô thanh xiết ghì
mải mê quên cả mùa thi
ta không xóa nổi bước đi vô tình
nàng tươi thắm một đóa quỳnh
rót vào ta giọng thần linh đêm nào
nở thơm cả giấc chiêm bao
những cơn mộng mị cồn cào nhớ nhung
dáng sao quyến rũ lạ lùng
ta rơi xuống tận mông lung ảo huyền
ai về Vĩ Dạ đợi thuyền
ta về dưới mái chùa thiêng đợi nàng
qua Lăng Cô biển xanh tràn
dắt nhau vào tận ngút ngàn Hải Vân


 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÊ HUỆCuộc thi Truyện ngắn cho sinh viên Huế do tạp chí Sông Hương tổ chức đã thu hút được sự tham gia của rất nhiều các bạn trẻ mang trong mình khát vọng văn chương. Những truyện ngắn dự thi đã cho ta thấy được một vóc dáng mới của các cây bút trẻ Huế hiện nay: phản ánh cuộc sống đương đại từ nhiều góc cạnh bằng bút pháp tinh tế, mới mẻ, giàu trí tuệ và đầy chất thơ. Mười lăm truyện ngắn xuất sắc lọt vào chung khảo đã được tập hợp lại thành ấn phẩm mang tên “Yêu xa xa một phút”.

  • PHAN MINH NGỌC“Bài thơ về biển khơi” (*) là tập sáng tác đầu tay của cây bút nữ Trần Thùy Mai.

  • NGÔ HƯƠNG GIANGLàm thế nào để diễn giải hợp lý về Tường Thành?

  • KHẢI PHONGTôi đã có dịp gặp những trang thơ chân chất của Nguyễn Quang Hà trong “Tiếng gà trên đỉnh chốt”(1). Lần này gặp văn Nguyễn Quang Hà trong “Mùa xương rồng nở hoa” (2), cảm tưởng lưu lại trong tôi là văn anh gây được ấn tượng mạnh hơn thơ.

  • NGUYỄN ĐÔNG NHẬT19 lời chứng của những ONS(1) cuối cùng, lần đầu tiên được lên tiếng qua công trình nghiên cứu hoàn hảo của bà Liêm Khê LUGUERN(2) là những nhân chứng cuối cùng trong số khoảng 27.000 người từ Đông Dương bị lùa đến nước Pháp từ tháng 10/1939 đến tháng 6/1940 để phục vụ cho guồng máy chiến tranh của thực dân Pháp trong Thế chiến thứ II.

  • LÝ HẠNHAi trong đời chẳng đã một lần làm thơ. Dù làm thơ để giải trí hay sẻ chia thì những trang thơ ấy cũng là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tâm hồn.

  • LTS: Có một chuyện ít người biết là các nhà văn Tô Hoài, Xuân Diệu, Huy Cận không nhớ ngày sinh của mình. Xuân Diệu, con nhà Nho, thì biết mình sinh giờ Thìn, ngày Thìn, tháng Thìn, năm Thìn, nhưng không biết dương lịch ngày nào. Nhà văn Tô Hoài cũng vậy, nhưng nhớ Bà Cụ cho biết sinh ông đêm rằm Trung Thu. Sau này, sang Nga, bạn người Nga hỏi, mới tra ra ngày Tây là 27-9-1920. Do đó trên các tư liệu, thường thấy ghi ngày sinh: 07-9-1920, và nhà văn cũng không buồn đính chính. Nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh nhà văn Tô Hoài, Sông Hương nhận được bài viết của nhà văn Đặng Tiến cùng thông tin về ngày sinh Tô Hoài nói trên. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.

  • HOÀNG DŨNGKhông phải ngẫu nhiên khi ta nói vũ trụ, thế giới thì vũ, giới là không gian, mà trụ, thế là thời gian. Ngay trong những khái niệm tưởng chỉ là không gian, cũng đã có thời gian quấn quýt ở đấy.

  • LTS: Trong các ngày 7-9/9/2010 sắp đến, Ủy ban Văn hóa Hội đồng Giám mục Việt Nam và Tòa Tổng Giám mục Giáo phận Huế sẽ tổ chức Hội thảo về thân thế và sự nghiệp của Léopold Cadière (1869-1955), Nhà nghiên cứu về Huế và Việt Nam học, chủ bút của tập san Bulletin des Amis du Vieux Hué (B.A.V.H), một trong số các tờ báo hay nhất ở Đông Dương thuở trước. Hội thảo sẽ có một số nội dung liên quan đến văn hóa Huế như Văn hóa Huế, Mỹ thuật Huế, Cổ vật Huế dưới con mắt của L. Cadière... Nhân dịp này, Tạp chí Sông Hương đăng bài viết của nhà nghiên cứu Hồ Vĩnh, chuyển tải vài nét về hoạt động văn hóa của Léopold Cadière. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.S.H

  • NGUYỄN THỊ HÒA Không cần phải bàn cãi, Từ điển tiếng Huế của Tiến sĩ, Bác sĩ Bùi Minh Đức là một tác phẩm Từ điển. Một quyển từ điển về phương ngữ địa phương Huế mà dày dặn, công phu, với 2050 trang, thể hiện công sức nghiên cứu miệt mài của một vị bác sĩ - nghiệp dư với nghề ngôn ngữ, nhưng đầy nhiệt tình và khá chuyên nghiệp trong nghiên cứu.

  • Sinh ngày 6-2-41 tại Huế. Hy sinh ngày 11-10-68 tại vùng biên giới tỉnh Tây Ninh, nguyên quán làng Bát Tràng tỉnh Bắc Ninh. Học sinh cũ Trường Quốc Học, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Ban Việt văn. Tên thật và bút hiệu công khai, chính thức: Trần Quang Long. Các bút hiệu khác: Thảo Nguyên, Chánh Sử, Trần Hoàng Phong.

  • TRẦN HỮU LỤCỞ tuổi 20, hành trình sáng tác của Nhóm Việt gắn liền với những biến cố lịch sử ở miền Nam (1965-1975). Những cây bút trẻ của Nhóm Việt đã bày tỏ một thái độ dấn thân ngày càng sâu sắc, vừa trên bình diện ý thức công dân, vừa trên bình diện ý thức nghệ sĩ.

  • PHONG LÊ(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Nguyễn Tuân 10-7-1910 – 28-7-1987)

  • NGUYÊN QUÂN Phía đằng sau những con chữ bình dị như một chốn quê nhà chưa bị ô nhiễm cơn đau phố bụi, một ngôi làng yên bình vẫn luôn hằng hiện trong mỗi hơi thở, mỗi bước gian truân của tác giả là sự chân thật đến nao lòng.

  • LÝ HOÀI THU Những câu thơ đầu tay của Hữu Thỉnh cất lên từ những cánh rừng Trường Sơn được anh gọi là “Tiếng hát trong rừng”. Anh viết về đồng đội, về cơn sốt rét rừng, về những trận bom và vết hằn xe xích, về mây, suối, dốc, thác Trường Sơn.

  • THÁI DOÃN HIỂU…Khi sự vong ân bội nghĩa của người đời đang diễn ra ở khắp đó đây thì Hoàng Trần Cương là người sống bằng ân sâu nghĩa cả. Với anh, ân nghĩa là một gánh nặng phải gánh. Anh nói về ân nghĩa như là một thứ trí nhớ của lương tri, một món nợ không bao giờ trả xong…

  • VŨ DUY THÔNG        (Thơ - Nghiêm Huyền Vũ, Nxb Trẻ 2000)Khác với bên ngoài, Nghiêm Huyền Vũ trong thơ là người trầm tư, cái trầm tư nhuốm vị triết học.Vây bọc quanh anh là không gian, thứ không gian cô liêu.

  • TRẦN QUỐC THỰCÍt người chịu đi tìm tiếng nói riêng khi đọc một tập thơ, một chặng thơ của một người. Qua từng chặng thơ, tiếng nói riêng ấy sẽ trở thành một cách thơ riêng biệt. Và đó là điều đáng mừng cho đội ngũ sáng tác.

  • NGUYỄN THANH TÚ          (Phác thảo chân dung nhà văn Nguyễn Bảo)

  • LGT: Cuốn tiển thuyết “Biết đâu địa ngục thiên đường” của nhà văn Nguyễn Khắc Phê vừa xuất bản được xem là tác phẩm thành công nhất của ông, cũng là cuốn tiểu thuyết viết kỹ lưỡng nhất, lâu nhất. Cuốn tiểu thuyết này hiện nay nằm trong danh sách những cuốn vào chung khảo cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam. Sông Hương xin giới thiệu những ý kiến nhận định rất chân thành của Giáo sư Trần Đình Sử, nhà văn Ma Văn Kháng và nhà nghiên cứu phê bình Từ Sơn.