NGUYỄN QUANG HÀ
Ký
Viết về bà mẹ anh hùng Nguyễn Thị Lớn, xã Thủy Dương (xã anh hùng) huyện Hương Thủy, Thừa Thiên Huế.
Tri ân các Mẹ Việt Nam Anh hùng ở Hương Thủy - Ảnh minh họa (Báo TTH)
Chị Lớn bị bắt bị tra khảo, được tha lại bị bắt... Chuyện như cơm bữa, như lẽ thường tình ấy bà con xã Mỹ Thủy (nay là xã Thủy Phương) chẳng ai lạ lùng gì, cũng chẳng ai cần để ý gì.
Mọi người chỉ nhớ lần chị bị bắt sau cùng vào năm 1963. Như thường lệ, trước mỗi lần có trận đánh lớn, cơ sở ta ở trong xã Mỹ Thủy đi vận động bà con người góp tiền, người góp gạo, nhiều ít tùy tâm để mua thuốc men, bông băng, thực phẩm giúp đỡ cho bộ đội về quê mình đánh giặc.
Không ngờ lần ấy có kẻ phản bội, góp tiền mua gạo xong, hắn đi báo cáo cho cảnh sát. Mười người bị bắt liền một lúc. Kẻ chỉ điểm khai ngay chị Lớn là người cầm đầu.
Khỏi phải nói, chị bị tra tấn đủ mùi: tra điện, tàu lượn, tàu bay... Nhục hình không làm chị hé răng, chúng tưởng tra tấn sẽ làm chị khiếp sợ, nên chúng chia mái tóc dài, đen óng ả của chị ra làm từng lọn nhỏ, rồi cột vào cánh quạt máy. Chúng bấm nút cho quạt chạy. Từng mảng da đầu chị bật tung, máu loang chảy xuống ướt đẫm áo quần.
Chị Lớn càng im lặng hơn.
Tức giận vì bị thất bại trước lòng kiên trung của người đàn bà, tên mắt lồi, từng vỗ ngực được đi huấn luyện tận Đài Loan, hắn trực tiếp ra tay.
Hai ngón độc địa của hắn được trổ tài. Hắn đẩy chị vào phòng gỗ hẹp. Bốn bức tường tua tủa đầu đinh nhọn hoắt.
Đứng trong bức tường ấy đã là một sự đe dọa.
- Có khai không ? Tên mắt lồi hỏi.
Im lặng.
- Có khai không ? Một... hai... ba...
Sự bất lực dồn hết vào cây gậy nham nhở nện tơi bời vào thân thể chị. Chị ngã vào tường bên này, quật mình vào tường bên kia. Đòn đau cộng với đinh đâm, xé toác da thịt. Máu trên người chị lại chảy.
Vẫn không moi ở chị Lớn được một lời, tên mắt lồi trổ tiếp món tàn bạo nhà nghề. Những ngón tay cứng như thép của hắn chộp móc vào xương cụt chị. Đau quá, lưỡi chị thè ra, máu ở miệng, máu ở mắt, ở tai đều ộc ra. Chị Lớn ngã vật xuống đất, bất tỉnh.
Vào một trận đòn tiếp sau nhiều trận đòn, tên mắt lồi ngừng tay xả hơi lấy sức. Trong lúc nó chủ quan, lơ là, chị Lớn vồ lấy cây gậy bên chân tên mắt lồi, nhanh như cắt, quật cây gậy ấy lên đầu hắn. Tên mắt lồi bị ngã gục, máu chảy lênh láng. Bọn đàn em của mắt lồi ập vào, trói gô chị lại, bỏ chị vào cũi sắt chở thẳng lên nhà lao trên Huế.
Hai năm sau, vào một buổi sớm, chiếc xe bịt bùng từ Huế chạy về, đến ngã ba Mỹ Thủy, dừng lại, vất từ trên xe xuống một xác người lăn lóc trên vệ đường. Chiếc xe chạy đi. Bà con xúm lại xem. Cái xác kia không ai khác, chính là chị Lớn. Thấy chị còn đang thoi thóp thở, bà con Mỹ Thủy người góp gạo, kẻ góp công, góp tiền chạy chọt lo cho số phận của chị.
Chị sớm sống lại. Nhưng người ngơ ngác như mất hồn. Từ đấy, như một người điên, vô cảm, chị đi lang thang. Nắng, mưa, giông bão, ngày nào cũng như ngày nào, mở mắt là chị Lớn mình trần, quần áo vá trăm mảnh xắn đến tận bẹn, chị đi. Tắt qua đồng, lội dưới ao, đạp lên bùn rác, băng qua núi đồi, lên Huế, về Phú Bài... Chị đi suốt ngày, có khi suốt đêm không nghỉ, đầu trần, đội mưa đội nắng, như không biết có trời đất gì nữa.
Người gọi chị là Mụ Điên, kẻ gọi chị là Mụ giả điên, đứa bảo chị là Cộng sản ngụy trang trá hình, phải cảnh giác, phải trừng trị. Không ít kẻ được giao việc theo gót chị, nhưng chả moi được gì ở "người đàn bà điên ấy".
Một hôm trời nắng chang chang. Bọn lính tráng và công an vào ăn ở quán bên đường xã Mỹ Thủy. Thấy chị, tên chi trưởng công an định làm phách với đàn em. Gọi chị lại hỏi:
- Đi mô ?
- Đi chơi - Chị đáp.
- Chơi với ai ?
- Với Cộng sản.
Câu nói của kẻ điên chọc tức máu kẻ quen thói hà hiếp. Hắn chỉ vào túi vải chị mang trên vai, hỏi:
- Cái chi ?
- Của quý.
- Mở ra xem.
- Xem chi vô duyên vậy.
Nhìn trong mắt chị có vẻ muốn tìm đường trốn, tên chi trưởng cảnh sát rút súng ngắn lên đạn cái "roẹt", chỉ vào chị ra lệnh:
- Mở ra.
Đường cùng, chị rụt rè bước tới bàn hắn, cởi nút, mở túi, vụt một cái, chị đổ cả túi lên mặt bàn: rác rưởi, giấy lộn, đồ hôi thối nhớp nhúa theo gió bay tung, tấp vào đầy bàn ăn. Thức ăn thơm tho bỗng hôi rình. Cả quán ăn được bữa cười chảy nước mắt.
Tên chi trưởng xấu hổ, đánh chữa thẹn:
- Mụ này điên thật, bay ơi.
Hắn la lối quát tháo đuổi chị đi:
- Đi cho khuất mắt, đồ bẩn thỉu.
* * *
"Người đàn bà điên" cứ đi như thế cả chục năm trời. Những người biết chị không điên chút nào, đó là các đồng chí của chị. Chị đi do thám, đưa công văn, chỉ thị, giấy tờ thượng khẩn. Chị là trung úy biệt động thành Huế.
- Xưa đi xem tuồng, nhớ tích "Tam nữ đồ vương", mê cô gái giả điên vượt qua cửa ải, tôi bắt chước - Chị nói.
Chỉ có người đàn bà chồng chết trong kháng chiến chống Pháp, con trai là liệt sĩ hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ, chị mất tất cả, chỉ còn đất nước này, khát vọng độc lập mới cho chị đủ sức lực để chịu đựng biết bao khổ ải để giữ vững ý chí của một người dân yêu nước.
Chị không còn chồng, mất cả con, đến cả cái tên chị cũng không có cho hàng xóm gọi. Thấy chị cao to, khỏe mạnh, vạm vỡ, sừng sững, to lớn, lấy sự cao lớn, bà con gọi chị: chị Lớn, và thế là thành tên. Chị lấy ngay cái tên ấy để đặt cho mình: Nguyễn Thị Lớn.
Một người mẹ không tên đã trở thành bà mẹ anh hùng.
Năm nay mẹ đã 74 tuổi. Mẹ đi lại nhờ hai cây gậy, cầm hai tay bước từng bước một chậm chạp, điềm tĩnh.
Mẹ đã góp vào cho đất nước Việt Nam anh hùng một vóc dáng của mình.
N.Q.H
(TCSH73/03-1995)
PHAN THỊ THU QUỲ(Hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”)
LÊ KHAI Bút kýAnh đưa tôi một tờ giấy cuộn tròn và nói: Tuần qua tôi đi tìm mộ liệt sĩ ở Truồi (huyện Phú Lộc). Tìm một mộ mà phát hiện ra tám mộ. Buồn! Tôi làm bài thơ. Anh xem và chữa giúp. Cả đời tôi chưa quen làm thơ. Anh chào tôi rồi vội vã về vì đang có việc cần.
HÀ KHÁNH LINH Trích Hồi ký… Mùa xuân 1967, địch tăng cường đánh phá suốt ngày đêm, ngày một ác liệt hơn. Các trạm khách dọc tuyến đường 559 không ngày nào không bị đánh trúng hoặc B52 hoặc bom tọa độ, hoặc pháo tầm xa. Ngày nào cũng có thương vong. Có những đơn vị trên đường hành quân vào Nam chưa đến địa điểm tập kết đã bị đánh tơi tả, chỉ còn sót lại vài người. Các cơ quan đơn vị đóng chung quanh khu vực phần nhiều đã bị đánh trúng.
TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ Tạp bútNhư nhân duyên, như định mệnh, cuộc đời tôi như thu hết vào trong một chung trà. Tuổi thơ đã qua, bây giờ và sẽ mãi mãi, cuộc đời tôi luôn vương vấn một hương trà. Tôi thường hay nói đùa cùng bằng hữu rằng sinh ra và lớn lên được ướp trong hương trà, tôi cũng chỉ mơ một ngày về thiên cổ được vẫy tiễn linh hồn bằng một chén trà ngon, được chôn theo cùng là một bộ ấm trà quý nhất và được vẫn cùng người “hồng nhan tri kỷ” đồng ẩm tương phùng ở thế giới bên kia!!!
TRẦN KIM HỒĐảo Cồn Cỏ là vọng gác tiền tiêu, là con mắt của Vĩnh Linh - khu Vĩnh Linh là tiền đồn của miền Bắc XHCN, là hậu phương trực tiếp của tiền tuyến lớn miền Nam; do đó đảo Cồn Cỏ có vị trí vô cùng quan trọng, mặc dù diện tích chỉ có 4km2. Mât Cồn Cỏ, miền Bắc XHCN trực tiếp bị uy hiếp, nhất là vào lúc nguỵ quyền Ngô Đình Diệm không ngớt hô hào lấp sông Bến Hải, Bắc tiến; đế quốc Mỹ từng trắng trợn tuyên bố biên giới Hoa kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17.
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGHai cái máy lạnh hai cục trong căn phòng 40m2 của nhà hàng Hoa Chuối cộng với cả trận mưa chiều đột ngột tầm tã không làm dịu được sức nóng từ tấm thịnh tình của gần 50 cộng tác viên thân thuộc của tạp chí Sông Hương tại thủ đô Hà Nội.
TÔ VĨNH HÀTrong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, 60 năm qua là một chặng đường đặc biệt. Chưa bao giờ dân tộc ta phải đương đầu với nhiều thử thách đến như thế, phải chiến đấu và chiến thắng nhiều kẻ thù đến như thế. Pháp rồi Nhật, Tưởng và Anh; hết Mỹ đến Khơmer “đỏ”... Kẻ thù và đau khổ nhiều đến mức tưởng chừng như đất nước Việt Nam được tạo hoá sinh ra là để cho các loại kẻ thù nhòm ngó, tìm mọi cách thôn tính.
NGÔ MINHTừ tháng 7-1954, Hiệp định Giơnevơ ký kết cho đến cuối năm 1964 đôi bờ giới tuyến Hiền Lương lặng im tiếng súng, nhưng đây là 11 năm diễn ra cuộc đối đầu văn hóa nóng bỏng, quyết liệt nhất giữa ta và địch.
PHAN THỊ THU QUỲ Trên bờ Hương Giang êm đềm, có ngôi nhà nhỏ tôi được sinh ra ở đó. Hằng ngày tung tăng cắp sách đến trường Đồng Khánh, tôi cũng nhảy nhót trên bờ Hương Giang. Lớn lên tôi hoạt động nội thành thường đến hò hẹn bên cây phượng vỹ trước cửa Thượng Tứ, nơi đó là địa điểm giao nhận những “gói nhỏ”, để nhận công việc và để nhớ mật hiệu. Cho nên trên bờ Hương Giang tôi đã ngắm dòng sông thơ mộng với tôi gắn bó biết bao từ tuổi ấu thơ cho đến bước vào đời.
NGUYỄN VĂN VINH Bút ký Thôn Hiền An, xã Vinh Hiền là một thẻo đất cát bạch sa cuối phá Tam Giang phía Bắc vào. Như một ốc đảo ba bề, bốn bên là nước, nếu không có đường 49B chạy dọc phá đến cùng đường, tận biển. Và mỗi ngày, hai chuyến xe đò chở khách cùng mấy chục chuyến đò ngang phá qua lại Lộc Bình đem chút xôn xao thị tứ, phố chợ về với thôn, xã thì Hiền An càng xa xôi heo hút.
TRẦN HOÀI Ghi chépThung lũng A Lưới chạy dài theo hướng Bắc Nam đến vài chục km. Đó là một thung lũng đẹp, là một vị trí quân sự chiến lược, là nơi giao tranh ác liệt giữa ta và địch trong cuộc kháng chiến vừa qua...
LÊ BÁ ĐẢNGBạn của tôi rất nhiều. Năm ba bạn mà tôi nhắc nhở ra đây phần nhiều là bác sĩ, kỹ sư, giáo sư còn nghệ sĩ thì chất cả đống.
NGUYỄN THẾ QUANGMùa hạ, trời Bát Tam Boong trong xanh. Những hàng cây thốt nốt lặng lẽ kiêu hãnh xòa những tán lá xanh che mát cả khu đồi. Trong căn nhà của sở chỉ huy Sư 179 quân đội Cămpuchia, trung tá Nguyễn Văn Du chuyên gia của bộ đội Việt Nam cởi thắt lưng ra treo khẩu K54 lên vách. Anh vui mừng trước khả năng chiến đấu ngày càng tốt của quân đội bạn. Trận đánh trả lực lượng quân đội Thái Lan bảo vệ sáu nghìn dân tị nạn ở chòm Rumthumây diễn ra nhanh chóng.
TỐ HỮU Trích chương V, hồi ký Nhớ lại một thời
VÕ MẠNH LẬP Ghi chépTrong những ngày tháng ba, hai lẻ sáu trời Hà Nội đẹp và dễ chịu. Cái nắng vàng phủ tràn thành phố, tôn màu của cây thêm xanh biếc, ngói trên các mái nhà như thắm thêm lên, đường phố đi lại thanh thoát và đặc biệt có chút se lạnh vào sáng sớm như sợi tơ vương của hơi thở cuối mùa đông còn lưu sót lại.
NGUYỄN QUANG HÀ Bút kýMã Yên là tên trên bản đồ của một ngọn núi, còn dân địa phương thì gọi đó là núi Yên Ngựa. Núi Yên Ngựa là một trong những ngọn núi ngoài cùng về phía Đông của dãy Trường Sơn.
NGUYỄN QUANG HÀ Bút kýNắng chiều vàng trải dài trên những hàng bia trắng như mơ, như kỳ ảo. Đi trong nghĩa trang tôi có cảm giác mình như đang ngỡ ngàng, có cái gì đó nghèn nghẹn nơi cổ khi hàng hàng những bia trắng dài kia không có một nét mực ghi tên. Đó là những tấm bia vô danh.
NGUYỄN TRI TÂMNgười kể chuyện phải lục tìm những tấm ảnh lưu niệm để nhớ chính xác hơn. Sau tấm ảnh đen trắng cỡ 18x24, tướng Hoàng Văn Thái kí tên và ghi rõ “Thân tặng đồng chí trung tá Lương Văn Chính, người chiến sĩ Điện Biên năm xưa, huyện đội trưởng huyện đội Điện Biên. Kỉ niệm ngày lên thăm Điện Biên 3-4-1984”.
TẤN HOÀIHưởng ứng cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí MinhĐêm đó, Bác nghỉ lại tại Cọt Mạ - một thị trấn nhỏ của Trung Quốc, thị trấn nhỏ như một bản miền núi miền nam Trung Quốc, có một cái chợ nhỏ, cách biên giới Việt Nam khoảng trên bốn cây số. Tất nhiên, đó là một cơ sở của cách mạng Trung quốc. Hôm sau, Bác về nước cùng với những đồng chí Việt Nam đi đón Bác trong đó có Dương Đại Lâm, Lê Quảng Ba, Bằng Giang. Những người này về sau trở thành cán bộ lãnh đạo của khu tự trị Việt Bắc. Bác về đúng vào tháng 2 năm 1941. Bác đã ghi trên một phiến đá trong hang Cốc Bó, nằm trong khu vực Pác Bó. Gia tài Bác chỉ có một chiếc va li cũ đan bằng mây, bên cạnh một chiếc máy đánh chữ mà Bác luôn luôn xách bằng tay.
HOÀNG QUỐC HẢI Bút kýVì sao khi Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) được nước, cung điện nơi thành Hoa Lư các vua Đinh, vua Lê dựng như “điện Bách Bao thiên tuế, cột điện dát vàng, dát bạc làm nơi coi chầu, bên đông là điện Phong Lưu, bên tây là điện Cực Lạc, rồi làm lầu Đại Vân, dựng điện Trường Xuân làm nơi vua ngủ, bên cạnh điện Trường Xuân lại dựng điện Long Lộc, lợp bằng ngói bạc...”, lâu đài điện các như thế, tưởng đã đến cùng xa cực xỉ.