Ngụ ngôn của những tiếng hót

14:13 28/05/2012

LÊ HUỲNH LÂM 
(Đọc tập thơ “Những con chim của bóng tối” của Phạm Tấn Hầu - Nxb Văn học 6/2011) 

Tôi một mình, lũ pharixêu múa rối
Sống đến tận cùng, đâu phải chuyện chơi.

                        Bôrix Patecnax

Có thể giá trị đích thực của thơ là những gì mà tác giả đã cảm nhận qua lăng kính của tri thức và của những cơn đau ẩn mình trong trái tim bé nhỏ. Không giống như những người làm thơ khác thường tự đo đếm sự thành danh của chính mình ở số lượng và trên các mặt báo, Phạm Tấn Hầu đến với thi ca từ cuối những thập niên sáu mươi, một số bài thơ anh đã đăng rải rác trên báo Văn, Khởi Hành, Ý thức, Bách Khoa… nhưng mãi đến năm 1990 tác giả mới ra mắt tập thơ Thế giới anh đã ngỏ lời ở tuổi trên bốn mươi; ở tuổi này anh được một số người trong nghề văn gọi là nhà thơ trẻ. Nhân đây, có đôi lời tản mạn về cách nhìn chủ quan của một lớp người trong xã hội chúng ta (tự cho mình là bề trên), đó là cách nhìn với lăng kính hạn hẹp đã góp phần không nhỏ vào việc hạn chế sự trưởng thành của các thế hệ sau. Hãy nhìn lại quá khứ trong lĩnh vực văn  chương, khi một Vũ Trọng Phụng thành danh  ở tuổi trẻ trên dưới hai mươi, một Hàn Mạc Tử,  Chế Lan Viên, Phạm Công Thiện,… là những  tác giả để lại ấn tượng mạnh ở lứa tuổi như vậy. Thực ra, với thi ca không có ranh giới của tuổi tác, cũng không phân biệt người xuất hiện trước kẻ sau; vấn đề là xuất hiện như thế nào, và càng không có đàn anh đàn em như ở các băng nhóm… Điều trân quý trong mỗi người cầm bút là một tấm lòng! Tất cả những người thơ như đang trôi vào dòng chảy cuồn cuộn của xã hội và những angten cảm thụ cùng với khả năng ngôn từ cứ thế mà trào tuôn. Cũng như Rimbaud, một thi sĩ thấu thị chỉ ở tuổi niên thiếu, nhưng với sự giao cảm cao xa và sự rung động ở tầng thâm sâu của tâm hồn, chàng trai trẻ đó, sau này đã trở thành trung tâm điểm khiến cho thế giới thi ca quay xung quanh tác phẩm mình. Thi ca và khoa học cùng nhìn về một hướng nhưng con đường đến đích là khác nhau, thế giới của các nhà khoa học là thế giới của kinh nghiệm lý trí, thế giới của cái nhìn phóng chiếu ra bên ngoài. Trong khi đó thế giới thi ca vượt qua lý trí để đạt đến thực tại của cá thể qua những cơn xúc cảm và sự tiếp nhận trực diện từ nội tâm và ngoại cảnh.

Chưa bàn đến Quay vòng với bụi xuất hiện năm 1999, thiết nghĩ với Thế giới anh đã ngỏ lời xuất bản năm 1990 là quá đủ và chỉ chừng đó thôi đã hình thành những mảng và khối của một thi sĩ, khi nghe “bản tin về Paxtenắc” bị khai trừ ra khỏi hội, tác giả như đã cảm nhận được một vòng quay của tương lai. Phẩm giá của nghệ thuật nói chung và của thi ca nói riêng trong những xã hội bình thường sẽ tự khẳng định chính nó bởi bản lĩnh của tác giả, không một ma lực nào có thể lay chuyển, uốn cong giá trị nghệ thuật theo ý đồ khác, trừ khi có sự thỏa hiệp của tác giả.

Trong cách nhìn đó, Những con chim của bóng tối lại một lần nữa cho người đọc nhìn rõ hơn gương mặt của thi nhân, khi tác giả đã ngỏ lời với thế giới hơn hai mươi năm qua. Nhưng thế giới vốn như vậy, không bao giờ toàn mỹ vì không có sự hoàn hảo trong mỗi cá thể. Có chăng là sự đổi thay trong cách nhìn và cách thể hiện ngôn từ của nhà thơ. Để rồi bóng tối trở thành nơi trú ngụ của những linh hồn khát bay, khi màu đỏ bầm của máu trộn lẫn với đêm đen, để sự căng thẳng đổ dồn về trái tim cho lũ chim thức trắng:

Đêm hôm trước đỏ bầm
Như máu dồn trong máu
Và lũ chim thức trắng
Vì ngày mai
Là tiếng hát khác


Bi kịch thay khi tương lai của loài chim lại là những chiếc lồng nhỏ bé hơn cùng với sự mục nát.

Và chiếc lồng nhỏ bé
Hơn cả than giam cầm
Và mục nát
Phơi bày


Việc luận bàn về nghệ thuật ngôn từ có lẽ dành cho những bài chuyên khảo về toàn bộ tác phẩm của tác giả, ở đây chỉ nói đến tiết nhịp và hình ảnh trong Những con chim của bóng tối. Thật ra, ngoài những hình ảnh mới như cái chết của một thi sĩ, những người lính biển đảo, trang giấy lặng im, khoảng trống trên đường phố,… thì một số hình ảnh trong tập thơ này là một sự lặp lại của Thế giới anh đã ngỏ lời, có thể đây là chủ ý của tác giả như muốn nhắn nhủ với người đọc rằng, đã hơn hai mươi năm trôi qua, vẫn là những phận người khổ ải, hình ảnh những con chim thức trắng, không khí của sự im lặng, những khúc hát ru, những khoảng trống, những con đường quê,… có chăng là sự đổi thay về nghệ thuật ngôn từ và tiết nhịp, về những cái nhìn siêu nghiệm vượt qua rào cản duy lý, tạo ra những trường xung động khiến người đọc phải trở trăn trong trường thức của tác giả. Không gian thơ của Phạm Tấn Hầu trở nên thiêng liêng khi anh đã kiến tạo những hình ảnh vượt qua sự thật đớn hèn, để đề cao giá trị của thi ca và tạo ra những vệt loang rộng và sâu hơn trong thế giới thơ của chính mình. Và qua đó, tác giả cho người đọc thấy được gương mặt bao quát của xã hội mà chúng ta đang tồn tại với rất nhiều biểu hiện. Vì vậy khi khẩu độ lăng kính của tác giả càng lớn thì vẻ mặt của tác phẩm càng đa dạng và sâu thẳm, chúng ta hãy cùng tác giả đi qua những “khoảng trống trên đường phố” cùng với đội quân bán rong, những đoàn xiếc đói tuồng và những người cố bơm đầy hơi thành những tượng đài.

Đó là bi kịch của những con người tự túm đầu mình kéo lên mà bên trong chứa đầy những ngôn từ ngụy trá, rỗng tuếch, và có lẽ điều mà tác giả muốn nói còn nhiều hơn những câu chữ đang hiển hiện, khi sự gãy vỡ trở thành điều không thể chối bỏ:

chẳng bao giờ trọn vẹn, tiếng kêu này bị chặn lại
bởi một tiếng kêu khác
những cao ốc hãm hiếp nhau
những người bị nạt nộ
và kẻ thích đi nạt nộ


Sự thất vọng khi đã trở thành nỗi tuyệt vọng, cũng là thời khắc con người đối diện rõ nhất với chính mình, và đó chính là phút giây quyết định một tương lai khác, khi họ mải miết kiếm tìm mà không thể tìm thấy:

một cánh cổng, chiếc vé tàu của mình
cùng tay nải ấm áp
bao bọc mối ước mơ
họ không có câu hỏi nào
cũng chẳng biết trả lời
vì đường phố này thừa thãi
nỗi xa lạ


Thật khủng khiếp khi mỗi con người đang tồn tại trong một xã hội lại không thể tìm ra một cánh cổng, một con đường, và kinh khiếp hơn là sống mà không có câu hỏi nào. Phải chăng khi sự vô cảm đã ngập tràn bởi những kẻ thích đi nạt nộ đã khiến cho không khí sợ hãi trùm vây đến nỗi con người không còn biết hỏi và trả lời. Điều đó hãy để thời gian phán xét. Và rồi, dù biết rằng tất cả sẽ qua đi. Nhưng ở đây, không phải qua bờ bên kia, bờ hy vọng tươi sáng mà là qua những nhập nhoạng ảo mờ, như những thân phận cô quạnh trong mưa gió âm u, để gợi lên trong tâm hồn thi nhân một chút lòng trắc ẩn mà thi sĩ Phạm Tấn Hầu gọi đó là khoảng trống còn lại trong xã hội này, ôi thật trớ trêu khi khoảng trống tội tình kia là nguyên cớ gia tăng nỗi đau cho những tâm hồn còn biết xót thương.

Họ sẽ đi qua hàng cây xẫm tối kia
để trở thành chiếc bóng mờ
để tàn lá mong manh
quyện vào những sợi mưa mát lạnh
vỗ về
tấm lòng trắc ẩn
và đó là khoảng trống
còn lại trên đường phố này
để ta úp mặt
khóc.


Từ xưa đến nay, những người còn lương tri đã sống và giữ được phẩm hạnh cuộc đời, đặc biệt trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, mỗi người cầm bút như phải mang vác một sứ mệnh mà bằng cách này hoặc cách khác như một nghiệp dĩ phải đi cùng với những hoạt cảnh mà buộc người cầm bút phải tham dự, nhưng, như đã nói trên, bản lĩnh của người nghệ sĩ thể hiện chính trong những hoàn cảnh như vậy, đó là điều giúp cho mỗi chúng ta trưởng thành hơn trước mọi cám dỗ và sự sợ hãi đang bủa vây. Vì thế, để ghi nhận và đánh giá chính xác một nghệ sĩ là đánh giá vào những thời khắc cao trào của lịch sử và hãy nhìn xuyên suốt vào tác phẩm của họ. Bây giờ, chúng ta cùng “ru khúc Hoàng Sa” với nhà thơ Phạm Tấn Hầu để tưởng niệm những người lính đã ngã xuống vì Tổ quốc.

Ta tự Hoàng Sa mới thổi về
Mấy hồn lính thú thác xa quê
Không đảo không nhà không mộ chí
Theo sóng làm ma để thét gào
Người ở phương Nam ta phương Bắc
Tìm nhau qua tiếng hịch thiêng liêng
Gọi mỏm đá kia là Tổ quốc
Biết bao lần đem máu tưới lên


Hỡi “những con chim của bóng tối” hãy kiên nhẫn “chờ đợi sự im lặng”, dù biết rằng sự im lặng cuối cùng cũng bị nuốt chửng: “và những con đường luôn khép lại/ cây cũng tụm lại/ tắt luôn tiếng rì rào/ tựa như đang chờ đợi/ để nuốt chửng thêm sự im lặng/ của chúng ta”. Trong khoảng thời gian chờ đợi đó, chúng ta hãy băng qua khu “rừng Juliet” để cùng “thắp sáng rừng tình nhân” và chứng thực một “sự dâng tặng” đầy thi vị đã thúc giục niềm khô khát bên trong trái tim người thơ:

những trái cây thật tròn đầy
rụng quanh niềm khao khát. Hỡi em
ta muốn một thế giới
chuyển động theo ý nghĩ
về em.


Như một cảm nghiệm về thế giới, cuối cùng là một sự lặng im bao trùm khi mà cái chết là điều tất yếu và hư vô luôn ngự trị trong mỗi chúng ta, dù trong “cái chết của một thi sĩ” như một tiên nghiệm của trực giác về sống chết, nhưng tác giả như đang nhắc nhở chúng ta rằng, mỗi thời khắc trôi qua, chúng ta đang nhích dần về phía lặng im vĩnh cửu:

Hãy im lặng
để nghe nỗi cô đơn đang xua đi
tất cả hình thái, tư duy, chữ nghĩa
ra khỏi phút dây hiện hữu này
và nghe mình trôi đi, chìm sâu


Và chính trong sự im lặng đó, mỗi chúng ta hãy bình thản ngắm nhìn chiếc áo quen thuộc như trở thành một với chúng ta lần cuối cùng để bước vào một thế giới khác:

Trần trụi và đơn độc
ta muốn ngắm mình
thật kỹ
trước khi phó mặc
cho sự khâm liệm
của hư vô.


Chúng ta có thể tìm thấy “những con chim của bóng tối” đang ẩn núp đâu đó xung quanh ta và có thể ngay bên trong mỗi chúng ta đều có những khát vọng được bay đang nằm im trong thẳm sâu để đợi chờ ngày tung cánh. Tôi tin rằng ngày đó sẽ đến dù sớm hay muộn gì, vì khát vọng bay là khát vọng của cả một dân tộc nói riêng và của loài người nói chung. Vì thế những chiếc lồng bé nhỏ, chật chội và mục ruổng kia sẽ không giam cầm được khát vọng lớn lao của cả nhân loại. Hỡi “những con chim của bóng tối” hãy đợi chờ ngày tung cánh.

L.H.L  
(SH279/5-12)







 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • VĨNH CAO - PHAN THANH HẢIVườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Nhưng do những nguyên nhân lịch sử, khu vườn này đã bị triệt giải từ đầu thời vua Ðồng Khánh (1886-1889) và để trong tình trạng hoang phế mãi đến ngày nay. Trong những nỗ lực nhằm khắc phục các "không gian trắng" tại Tử Cấm Thành và phục hồi các khu vườn ngự của thời Nguyễn, từ giữa năm 2002, Trung tâm BTDTCÐ Huế đã phối hợp với Hội Nghệ thuật mới (Pháp) tổ chức một Hội thảo khoa học để bàn luận và tìm ra phương hướng cho việc xây dựng dự án phục hồi khu vườn này.

  • HỒNG DIỆUNhà thơ Cao Bá Quát (1809-1854) được người đời hơn một thế kỷ nay nể trọng, với cả hai tư cách: con người và văn chương. "Thần Siêu, thánh Quát", khó có lời khen tặng nào cao hơn dành cho ông và bạn thân của ông: Nguyễn Văn Siêu (1799-1872).

  • HÀ VĂN THỊNHI. Có lẽ trong nhiều chục năm gần đây của lịch sử thế giới, chưa có một nhà sử học nào cũng như chưa có một cuốn sách lịch sử nào lại phản ánh những gì vừa xẩy ra một cách mới mẻ và đầy ấn tượng như Bob Woodward (BW). Hơn nữa đó lại là lịch sử của cơ quan quyền lực cao nhất ở một cường quốc lớn nhất mọi thời đại; phản ánh về những sự kiện chấn động nhất, nghiêm trọng nhất đã diễn ra trong ba năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới: sự kiện ngày 11/9, cuộc chiến tranh Afganistan và một phần của cuộc chiến tranh Iraq.

  • ĐẶNG TIẾN     (Đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)Một tờ báo ở ngoài nước đã giới thiệu bốn cuốn hồi ức của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp mới xuất bản. Dĩ nhiên là một bài báo không thể tóm lược được khoảng 1700 trang hồi ký viết cô đúc, nhưng cũng lảy ra được những đặc điểm, ý chính và trích dẫn dồi dào, giúp người đọc không có sách cũng gặt hái được vài khái niệm về tác phẩm.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO       (Đọc tập truyện ngắn “Trà thiếu phụ” của nhà văn Hồng Nhu – NXB Hội Nhà văn 2003)Tôi đã được đọc không ít truyện ngắn của nhà văn Hồng Nhu và hầu như mỗi tập truyện đều để lại trong tôi không ít ấn tượng. Trải dài theo những dòng văn mượt mà, viết theo lối tự sự của nhà văn Hồng Nhu là cuộc sống muôn màu với những tình cảm thân thương, nhiều khi là một nhận định đơn thuần trong cách sống. Nhà văn Hồng Nhu đi từ những sự việc, những đổi thay tinh tế quanh mình để tìm ra một lối viết, một phong cách thể hiện riêng biệt.

  • ĐỖ QUYÊN…Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa…

  • LÊ THỊ HƯỜNGTrong căn phòng nhỏ đêm khuya, giai điệu bản sonat của Beethoven làm ta lặng người; một chiều mưa, lời nhạc Trịnh khiến lòng bâng khuâng; trong một quán nhỏ bên đường tình cờ những khúc nhạc một thời của Văn Cao vọng lại làm ta bất ngờ. Và cũng có thể giữa sóng sánh trăng nước Hương Giang, dìu dặt, ngọt ngào một làn điệu ca Huế khiến lòng xao xuyến.

  • NGÔ MINHĐến tập thơ chọn Giếng Tiên (*), nhà thơ - thầy giáo Mai Văn Hoan đã gửi đến bạn yêu thơ 5 tập thơ trữ tình, trong đó có hai tập thơ được tái bản. Đó là tập đầu tay Ảo ảnh, in năm 1988, tái bản 1995 và tập Hồi âm, in năm 1991, tái bản năm 2000. 15 năm xuất bản 7 đầu sách (2 tập tiểu luận) và đang có trong ngăn kéo vài tập bản thảo tiểu luận nữa, chứng tỏ sức sáng tạo sung mãn đáng nể trọng của một thầy giáo vừa dạy học vừa sáng tác văn chương.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO        (Đọc tập thơ ''Độc thoại trước mặt trời'' của Trần Lan Vinh- NXB Văn học Hà Nội- 2003)Trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại, sự thiếu vắng những cây bút nữ đã trở thành một vấn đề cần được chú trọng. Hầu như mỗi khi phụ nữ cầm bút, điều họ quan tâm nhất đó là sự giải bày tâm sự với ngàn ngàn nỗi niềm trắc ẩn. Nếu viết là một cách để sẻ chia tâm sự thì Trần Lan Vinh là một trường hợp như thế.

  • NGUYỄN THANH TÚMùa đông năm ngoái, anh Đoàn Tuấn từ Hà Nội vào Huế giảng dạy lớp đạo diễn điện ảnh. Dù công việc khá bận rộn nhưng anh vẫn dành cho tôi không ít thời gian tâm sự, bởi ngoài tình cảm thân thiết anh còn là cấp trên của tôi ở toà soạn tạp chí Thế Giới Điện Ảnh. Trong những lần trò chuyện ấy, tôi thật sự bất ngờ khi nghe anh kể chuyện về cuốn sách anh sắp in ở Nhà xuất bản Trẻ mà nội dung của nó là câu hỏi hơn 20 năm nay vẫn luôn canh cánh trong tôi. Vốn dĩ Đoàn Tuấn là nhà biên kịch điện ảnh tên tuổi, anh đã có nhiều kịch bản phim nổi tiếng như: Chiếc chìa khoá vàng (1998), Ngõ đàn bà (1992), Đường thư (2003)...

  • MAI VĂN HOANNguyễn Khoa Điềm đến với thơ hơi muộn nhưng đã sớm định hình một phong cách riêng. Qua các tập Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007) ta bắt gặp những suy ngẫm của anh đối với nhân dân, đất nước; những chiêm nghiệm của anh về đời sống xã hội, nhân tình thế thái. Những chiêm nghiệm và suy ngẫm đó được thể hiện bằng một giọng thơ trầm tĩnh, bình dị, sâu lắng và khá hiện đại.

  • NGUYỄN QUANG HÀ       (Đọc Nỗi niềm để ngỏ của Lê Lâm Ứng - Nhà xuất bản Văn học 2002)Đọc thơ Lê Lâm Ứng để tìm những câu mượt mà thì hơi khó. Thảng hoặc lắm mới bắt gặp ở anh tâm trạng thư thái này:                Biết rằng trong cõi nhớ thương                Lạc nhau âu cũng lẽ thường vậy thôi

  • MAI VĂN HOANNguyễn Đắc Xuân không chỉ có chân trong Hội Nhà văn Việt Nam mà anh còn là hội viên Hội Lịch sử Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam... Nhưng dù ở cương vị nào thì điều mà anh tâm huyết nhất vẫn là lịch sử và văn hóa Huế.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG   (Nhân đọc sách "Gió về Tùng Môn Trang" của Nguyễn Xuân Dũng)Tác giả cuốn sách này là một võ sư đệ bát đẳng huyền đai thuộc phái không thủ đạo, vừa là một nhà hoạt động thương trường nổi tiếng ở Mỹ. Nhưng cuốn sách này không hề bàn đến chuyện đấm đá hơn kém hoặc là chuyện mua bán lời lỗ mà bàn về cái TÂM. Tác giả tỏ ra hết sức chú trọng vũ đạo; nhất cử nhất động đều phải xuất phát từ cái TÂM, cái TÂM viết hoa.

  • TRẦN THUỲ MAI            (Đọc Uẩn khúc, tiểu thuyết của Hoàng Văn Bàng, NXB Thuận Hoá 2002)Câu chuyện xảy ra ở một vùng quê không xa lắm, với một tầm mức tai hại không lớn, gây một ảnh hưởng mới xem qua tưởng chừng không đáng kể. Một ông trưởng phòng ở huyện tham ô vài chục triệu thì đã thấm gì so với những câu chuyện động trời hàng ngày trên các báo, mà thủ phạm mang những chức tước lớn lao hơn, với những số tiền khổng lồ tới hàng nghìn tỉ!

  • MAI VĂN HOAN         (Giới thiệu các tác giả thuộc chi hội nhà văn Việt Nam tại Huế)Ngô Minh là một trong những nhà văn Việt Nam ở Huế được Đài truyền hình Cáp Việt Nam chọn giới thiệu tới 45 phút trong chương trình “Người của công chúng”. Tôi cũng được mời nói đôi lời về anh. Với tôi, Ngô Minh là người làm việc “tới số” và chơi cũng... “tới số”!

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNCùng một kiếp bên trời lận đận                  (Bạch Cư Dị - Tỳ bà hành)Nhà văn Bùi Ngọc Tấn vừa cho ra mắt tác phẩm Rừng xưa xanh lá (Mười chân dung văn nghệ sĩ) tại Nhà xuất bản Hải Phòng (1/2003).

  • TÔ VĨNH HÀNhững trang viết sau cùng của một con người luôn luôn là điều thiêng liêng và không bao giờ hết bí ẩn. Vì sao lại dùng từ ấy chứ không phải là chữ kia; đề cập đến cái này chứ không phải là cái khác..? Rất nhiều câu hỏi sẽ đến với người đọc khi trước mắt ta là những ý tưởng hiện hữu sau cùng của một đời người - đặc biệt ở con người vĩ đại như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là cái tên mà mỗi người Việt lúc đọc hay nói, không chỉ diễn đạt một quan niệm gần như vô hạn của nhận thức, mà hơn nhiều thế nữa - là âm sắc tuyệt vời của sự kết tụ những tinh hoa quý giá nhất của trái tim mình.

  • NGUYỄN TỐNGQuê hương đất nước và con người luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau trong suốt chiều dày của lịch sử dựng nước và giữ nước. Nó tự nhiên chan hoà đến mức như cá bơi quẫy giữa đại dương, chim tung cánh vô tư giữa bầu trời bát ngát. Đến lúc nào đó, khi con người rơi vào cảnh cá chậu chim lồng, tình cảm, ý thức về đất nước thiêng liêng mới trở nên ám ảnh day dứt.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ           (Đọc “Thân Trọng Một – con người huyền thoại” của Nguyễn Quang Hà)Đã từ lâu, tên tuổi anh hùng Thân Trọng Một trở nên thân quen với mọi người, nhất là với quân dân Thừa Thiên Huế; những “sự tích” về ông đã thành truyện “truyền kỳ” trong dân chúng và đã được giới thiệu trên nhiều sách báo. Tuy vậy, với “THÂN TRỌNG MỘT – CON NGƯỜI HUYỀN THOẠI”, lần đầu tiên, chân dung và những chiến công của ông đã được tái hiện một cách đầy đủ và sinh động nhất.