Ngôn từ nghệ thuật - Một nét phong cách độc đáo của Nguyễn Tuân

15:50 04/06/2008
Một phương diện giúp khẳng định phong cách của bất cứ nhà văn nào, mà chúng ta không thể bỏ qua, đó là nghiên cứu yếu tố ngôn từ - chất liệu cơ bản để sáng tạo nên tác phẩm văn chương mà nhà văn đã vận dụng một cách nghệ thuật.

Đối với Nguyễn Tuân điều này lại cần đặc biệt quan tâm. Bởi lẽ chính nhà văn đã rất coi trọng việc sử dụng ngôn từ khi ngồi trước trang giấy trắng. Ông từng viết: "Chúng ta vẫn đắm đuối với nghề Iàm văn, ngày càng chuốt thêm văn tự, ngày càng làm óng tốt dẻo bền hơn lên nữa cái tiếng nói Việt cổ truyền của mình"[1-137]. Với ý thức cao như vậy, nên ông luôn "tự học" để trang bị cho mình vốn ngôn từ phong phú, giàu có, để sử dụng một cách thoải mái trong lúc hành nghề. Tố Hữu nhận xét Nguyễn Tuân là "người thợ kim hoàn của chữ" [2-196]. Lại Nguyên Ân khen: "con người ông, phong cách ông cũng đẹp một cách độc đáo như câu văn ông, loại câu văn có một không hai trong nghệ thuật ngôn từ tiếng Việt" [2-564]. Để có được những lời tán dương trên Nguyễn Tuân phải trải qua một đời "sẵn sàng chịu khổ hạnh" để góp phần vun tưới cho "cái cây tiếng nói Việt Nam" ngày càng nhiều cành, nhiều lá, nhiều hoa trái hơn, càng như một thứ cây nêu Tết kỳ diệu lung linh giọng gió trước sóng Thái Bình Dương" [2-125].
Nét độc đáo trước tiên trong ngôn từ nghệ thuật của văn chương Nguyễn Tuân, là ông biết khai thác tối ưu hiệu ứng âm thanh của tiếng Việt đơn âm tiết, nhưng lại đa thanh điệu, tạo cho câu văn giàu tính nhạc vang hưởng chất thơ. Những năm trước và sau thập kỷ sáu mươi, Nguyễn Tuân nhiều lần len lỏi giữa rừng Việt Bắc đại ngàn. Với một tình yêu rừng da diết, nhà văn như đang nghe giai điệu rừng dội từ vách đá, vọng xuống lũng sâu, cộng hưởng vào tâm hồn chan chứa thơ nhạc của người bộ hành - Nghệ sĩ Nguyễn Tuân. Ông đã dùng những nét chữ để ký âm khúc nhạc rừng độc đáo: "Lòng tôi sao toàn là những cảm xúc của một người bộ hành thời Trung cổ đặt chân vào giữa một vùng Cổ đại. Đầu toàn nhớ lại những âm từ thơ Đường. Cảnh nơi dọc đường cũng Tùy Tùy Đường Đường cũng Lý Lý Trần Trần như thế thôi. Nhịp sống, nét sống cũng phong phong trần trần mộng mộng đào đào nguyên nguyên vậy" [6-350]. Đọc đoạn văn sau, chưa cần tìm vào ý nghĩa, chỉ nghe âm hưởng vang lên, cũng đã gợi trong ta liên tưởng như những tiếng nức nở của Chiêu Quân cống Hồ đồng vọng trong tâm hồn đời chị Hoài như vại dưa muối đã hỏng: "Nương theo cái chiều tưởng tượng gây gây mùi hoài cựu, tôi nghĩ xa, tôi nghĩ gần, rồi tôi nhận thấy cả một đời chị Hoài cũng chỉ là một đời một nàng Hạnh Nguyên bước đi một bước là thêm một bước cống Hồ. Rặt cống Hồ. Cống Hồ. Toàn là nhịp cống Hồ. Toàn là cung Nam. Nó chìm hẳn xuống như những tiếng tơ rầu" [5-341].
Nguyễn Tuân rất có tài khai thác sức gợi về mặt ý nghĩa tạo ra bởi mặt âm thanh của ngôn từ. Ông từng bình rất hay về các từ láy đôi, láy ba; các cảm quan ý nghĩa với những từ mang phụ âm đầu KH trong bài "Tán về ngôn ngữ". Trong "Lửa sinh nhật", ông nhại tiếng súng các loại: "Này thì Bục - Này thì Toác", "Choét! Choét! ung!" ta nghe mà liên tưởng cái đồn Đại Bục, Đại Phác kiên cố của quân địch, trước sức công phá dữ dội của chiến sĩ cách mạng, đã nhanh chóng bục, toác, nhão nhoét, ung thối ra.Vạch mặt một tên thối tha ở phố Cống Thần, nhà văn đã gọi hắn với một cái tên mang hai phụ âm b, l nghe mà phát tởm. Qủa cách đặt tên cũng là một thủ pháp nghệ thuật quan trọng. Vũ Trọng Phụng có cái tài trào lộng loại người tha hóa về mặt đạo đức, băng hoại về lương tâm nhân phẩm, bằng cách đặt cho chúng những cái tên hoa mỹ như Văn Minh, Phó Đoan, Tuyết, TYPN,... Trong khi đó, Nguyễn Tuân lại châm biếm bọn "ưng khuyển phệ - loại yêng hùng bay" đắt giá tốn kém trong quá trình huấn luyện kỹ thuật tiến hành "chiến tranh sạch sẽ" bằng cách phiên âm tên chúng kiểu "Oét-mô-len" thành Vét mồ lên [3-l38]. Tên tù binh bay được Nguyễn Tuân phiên âm thành đồ "Lạc-xon" phế thải; Đức cha Tuyên UÁy biểu tượng cho đạo đức bác ái thành tên xúi giục "Xít - pen - men"; cơ quan ngôn luận lẽ ra phải nói sự thật rành rọt, lại líu ngọng thành "U Pê U Pi". Đây không hề là sự ngẫu nhiên, vì khi đề cập đến những vĩ nhân của lịch sử Mỹ như Washington, Lincoln, hay các văn thi sĩ đáng quý như Edgar Poe, Jack London, Hemingway nhà văn đã viết một thứ chữ tiếng Anh trang trọng. Hiện tượng này có mối liên hệ ảnh hưởng nào chăng giữa Nguyễn Tuân với Bác Hồ. Như khi Bác viết hai bài "Dốt như bò" và "Xa lăng xa lù" đăng báo Nhân Dân ngày 14 - 2 -1952 và 30 - 3 - 1952, châm biếm những tên thực dân Pháp là Tat-xi-nhi và Xa-lăng. Về tên Tat-xi-nhi, Bác viết: "Thế là Tat-xi-nhi đã bị bạn nó tát vào mồm":
Kết luận thói huênh hoang của tên Xa-lăng, Bác viết:
"Xa lăng xa lù
Càng nói càng ngu
Ta đánh mạnh đánh mãi
Giặc thất bại lu bù" [4-297]

Về mặt từ ngữ, Nguyễn Tuân đã thừa hưởng lớn phần "hương hỏa" "kết tinh bởi trăm nghìn công sức lao động của tổ tiên truyền lại". Vì vậy, với tấm lòng tri ân trân trọng, nhà văn có ý thức trách nhiệm làm thể nào để bồi bổ tiếng nói dân tộc phải "giàu thêm mãi về cả chữ dùng, cả cách nói của ngôn ngữ Việt " [7-163]. Mỗi khi cầm bút, ông trải cái vốn từ phong phú mà mình chiếm lĩnh ra để chọn lấy một từ chính xác trong sáng nhất, nhưng cũng ít người dùng nhất, đặt đúng vị trí trong câu văn. Người đọc khi gặp, lập tức phản xạ với cái vốn quen dùng của mình mà rung lên xúc cảm, khắc vào ký ức như biết thêm một từ thần, như nhớ thêm một câu thơ hay, một cách dùng độc đáo, mà học theo để nâng dần năng lực ngôn ngữ của mình. Nguyễn Tuân có những cách dùng từ "quái dị" khó quên như:
"ấậy là một người đàn bà, thứ đàn bà tồi. Tồi ở chỗ lõa lồ trong câu nói tiếng cười". Cũng người đàn bà ấy: "người cứ ngồi ỳ ra đấy để ám sát cái hiền lành của một chuyến xe ngựa rất nên thơ" [5-305].
- Cái người phu xe già vốn vẫn kéo đưa tôi xuống xóm hát và đang ghếch càng xe lên hè chở tôi ra ga, nở một nụ cười a tòng rất có tính cách buộc tội cho tôi, trước mặt vợ tôi đang ngần ngại. [5-215]
Đọc văn Nguyễn Tuân, chúng ta có thể tìm thấy vô số trường hợp ông vận dụng các biện pháp tu từ độc đáo, những liên tưởng hết sức bất ngờ như:
- Thời giá hoa đào ở ngân thị Hương Cảng mấy ngày gần đây đã bỏ xa thời giá hoa biết nói trong hàng viện và mọi phòng trà. [5-23]
Thầy giáo dạy tiếng Việt có thể dễ dàng tìm cho mình những ví dụ về các biện pháp tu từ ở trong văn chương Nguyễn Tuân, nhằm minh họa cho các tiết dạy một cách phong phú và tiết kiệm được thời gian như:
"Nhưng mà cả cái cầu bảy nhịp đó, một trăm bảy mươi tám thước khung sắt đó tám trăm chín mươi tư gỗ ván đó, nhưng mà cái cầu đó là của ai?... Tổ chức quốc tế nào hay là cơ quan nào trong nước? Hay là trối kệ nó đó như là một đứa con hoang thai của thời thế? Chao ôi, thấy thương quá là thương, cho bảy nhịp Hiền Lương cầu tuyến! Nó lù lù vô duyên như một con bù nhìn khung nan sắt đang quá đỗi tẽn tò trên khúc sông đệm" [6-382].
Về mặt cú pháp, câu văn của Nguyễn Tuân có cấu trúc trùng điệp, để khắc họa đậm nét tính cách của nhân vật và sự đa diện của hình tượng. Người đọc thường có những xung động thẩm mỹ thú vị, gợi liên tưởng đến nhiều tầng nghĩa khác nhau, qua sự mở rộng tối đa những vị ngữ, bổ ngữ...
Nói về thân phận hèn mọn của thầy Lý trong "Một vụ bắt rượu lậu", nhà văn viết: - "Nghĩ đến đấy, thầy Lý không dám giữ đầu mình cho thẳng thắn, chỉ muốn cúi mặt mình xuống đất, hết nhìn đôi ủng da tây của quan Phủ, đôi guốc kinh của ông Đề và đôi bàn chân lấm của mình. Thầy Lý lúc này là sự hóa thân của một sự sợ hãi" [5-10].
Thủ pháp kết hợp những từ ngữ cùng trường nghĩa vào trong câu, đoạn văn, có thể xem là sự vận dụng thành công của Nguyễn Tuân. Câu văn của ông "co duỗi" một cách linh hoạt. Có khi gợi cảm giác vón cục kết tinh lại qua những câu văn ngắn, khô như: "Một tiếng loa. Một tiếng trống. Ba tiếng chiêng", "Hết cả lã chã". Nhưng thường thì câu văn Nguyễn Tuân gợi cảm giác không gian đang mở rộng, thời gian được kéo dài, bởi những từ ngữ chỉ phương hướng, chiều kích gắn kết vào nhau bằng những từ chỉ thì thời gian. Đoạn văn sau cho ta cảm giác ấy "Dọc theo con đường ở Phù Yên đang rộng ra, đang dài thêm mãi ra và thẳng duỗi ra, cuộc sống lao động tập thể đang cất lên cơ man là mái nhà mới, những ngôi nhà gianh nhà nứa mới. Nhà mới mọc đến đâu thì cây rừng bị thu hẹp đến đấy" [6- 122].
Câu văn của Nguyễn Tuân đan chéo nhau các phương chiều của không - thời gian qua liên tưởng miên man của tác giả, như những thước phim điện ảnh, hội tụ nhiều mảng không gian, đồng hiện nhiều khoảnh khắc thời gian, tạo ra hình ảnh đối lập sinh động nói lên sự vận động phát triển của con người - đất nước Việt Nam, từ nô lệ nghèo đói, đau thương khổ nhục sang tự do, no đủ hạnh phúc. Nằm trên mỏ "Than Quỳnh Nhai" nhà văn nghĩ: "Tôi nằm đây là nằm trên những biến thiên biển xanh nương dâu, trên những xác rừng cổ đại nay khai ra đốt sáng miền Bắc kiến thiết tổ quốc trong đó mỏ châu Quỳnh Nhai có cái vinh quang được góp phần than lửa của mình" [6-287]. Đạp xe đi giữa lòng Hà Nội ngày sơ tán, hồn Nguyễn Tuân lại phiêu dạt vào Huế xưa, mà không khỏi bồi hồi về tình cha con sâu nặng của thời thơ ấu. Ông viết: "Giữa phố Huế của Hà Nội sơ tán, thấy dòng phố như một dòng sông Hương, và thấy xe đạp chậm của mình đang như một con đò trôi miết trên dòng. Chao ôi, quên sao được sáu nhịp cầu Thành Thái và quên sao được những tiếng súng giờ giấc của thành Huế thanh bình giả vờ thuở đó" [7-113].
Nói đến ngôn từ Nguyễn Tuân, không thể không nói đến tín hiệu đặc trưng của thể loại ký. Đó là tính khoa học chính xác nghiêm túc với tinh thần trách nhiệm cao của tác giả thể hiện trong trang viết. Những tên người, tên đất, con số, sự kiện của địa lý - lịch sử Việt được nhà văn tra cứu kỹ lưỡng trước khi định hình trong câu văn. Nguyễn Tuân cho rằng: "Tôi vẫn cho địa lý quan trọng hơn lịch sử. Khoa học của lịch sử kích thích tinh thần quốc tế và bồi dưỡng nhiều cho lòng yêu nước. Do có kiến thức lịch sử' mà tấm lòng càng gắn bó với đất nước. Những cái điều đó cũng dễ thành một ý niệm trừu tượng, nếu không có sự bổ túc của khoa địa lý. Muốn yêu đất nước tổ tiên mình cho thật đầy đủ, thì phải đi bằng hai chân cả lịch sử và địa lý. Muốn thật yêu một vùng nào, một tấm lòng chưa đủ, phải có đôi chân nữa. Không có sự phối hợp của địa lý; mà chỉ có toàn lịch sử thôi thì khác chi thấy bóng rồi mà chưa lần ra cho hết cái hình" [6-464]. Tư tưởng nghiêm túc này đã chỉ đạo ngòi bút của Nguyễn Tuân viết nên những trang ký chân thực, khách quan về sự kiện, sâu sắc về bình giá và đậm đà về tình cảm.
Điều cuối cùng, dựa vào phong cách chức năng của ngôn ngữ, chúng tôi thấy ngôn từ văn chương Nguyễn Tuân là hiện tượng đa phong cách. Nhà văn như nghệ sĩ xiếc ngôn từ. Ông nhại được giọng nhiều vùng miền khác nhau, huy động thích hợp thuật ngữ nhiều ngành khoa học, nghệ thuật khác phục vụ cho việc xây dựng hình tượng nghệ thuật văn chương và chuyển tải tư tưởng, tình cảm đến với bạn đọc, góp phần làm phong phú thêm ngôn ngữ văn chương xứng đáng là bậc thầy ngôn ngữ của văn đàn hiện đại Việt Nam.

NGUYỄN TỐNG
(nguồn: TCSH số 154 - 12 - 2001)

----------------------------------------------
1. Nguyễn Tuân - Chuyện Nghề, NXB Tác phẩm mới, 1986.
2.
Tôn Thảo Miên-Nguyễn Tuân về tác giả và tác phẩm, NXB Giáo dục, 1998.
3.
Nguyễn Tài Cẩn-Ngĩr pháp tiếng Việt, 'NXB Đại học THCN, 1981.
4. Tập nghiên cứu chọn lọc về thơ văn Hồ Chủ Tịch, NXB Giáo dục, 1978.
5,6,7. Tuyển tập Nguyễn Tuân, NXB khoa học Xã hội, l998
.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.

  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!

  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.

  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H