Ngôn ngữ và Văn hoá

14:36 10/03/2010
Cách đây vài hôm, tôi nói chuyện với một vị nữ tiến sỹ ở Viện nghiên cứu văn hoá nghệ thuật. Bà là một trưởng phòng nghiên cứu có thâm niên, rất thông thái về văn hoá. Trong lúc vui chuyện tôi nói rằng mình có ý định tìm hiểu về mối quan hệ giữa văn hoá và ngôn ngữ. Bà bảo không thể đặt vấn đề như vậy, vì ngôn ngữ là một thành tố của văn hoá.

Trước hết, con người khác muôn loài ở ngôn ngữ. Nhờ ngôn ngữ mà con người đã xây dựng nhiều nền văn minh trên trái đất này. Nhưng ngôn ngữ của mỗi dân tộc khác nhau. Điểm khác nhau cơ bản trong ngôn ngữ là ở cách dùng danh từ, tính từ và đại từ. Quả vậy, người Việt nói “áo trắng” nhưng người Tầu không nói vậy. Người Tầu nói “Bái Yfu” (Trắng y phục). Người Nga, ý, Mỹ, Anh, Pháp, Arập, Nhật, Hàn,… nói giống người Tầu hết. Họ đặt tính từ lên trước danh từ. Trong mối quan hệ đại từ và danh từ cũng có sự trái ngược tương tự: người Việt nói “Đất nước tôi”, người Pháp nói “Mon pays” (của tôi đất nước). Khi học ngoại ngữ chúng ta phải tuân theo ngữ pháp của ngôn ngữ đó và nhận thấy cái sự ngược đời ấy là bình thường. Nhưng khi nhìn nhận ngôn ngữ theo vật lý học hoặc/và văn hoá học ta có thể phân tích sự ngược đời ấy dưới các góc độ khác.

Vật lý học là môn nghiên cứu sự vận động có hướng của các vật thể trong không thời gian. Còn văn hoá học là môn nghiên cứu sự vận động của các khái niệm trong tâm hồn con người. Do vậy, có thể kết hợp hai môn này trong việc phân tích thứ tự danh từ, đại từ, tính từ trong các ngôn ngữ.

Dân Việt khi nói bao giờ cũng đặt danh từ lên trước, rồi mới đến tính từ. Người Việt mình nói “trời xanh, mây trắng, cờ hồng”, chứ không nói “Blue sky, white cloud, red flag” (xanh trời, trắng mây, đỏ cờ). Dân ta, ngàn năm bị lệ thuộc Tầu, lại gần ngàn năm dùng chữ Tầu trong thi cử và giao dịch hành chính vẫn không nói theo người Tầu và các dân tộc khác. Cách nói đó có sức sống mãnh liệt và là một đặc trưng cơ bản nhất của ngôn ngữ Việt. Có lẽ cụ Phạm Quỳnh đã nhìn thấy cái sức sống mãnh liệt của ngôn ngữ Việt, nên ngay trong những năm dài mất nước cụ đã viết “Truyện Kiều còn, tiếng Việt còn, tiếng Việt còn, nước Nam còn”.

Vậy tại sao dân Việt mình khi nói lại đặt danh từ lên trước như vậy? Ngôn ngữ được hình thành gắn liền với thông tin về hình ảnh, âm thanh, mầu sắc... Nếu ta trông thấy một cái gì đó dài dài, hơi tròn, lại rỗng ở giữa, ta bảo đó là cái ống. Danh từ “ống” được hình thành và lưu trữ trong óc với những thông tin về hình ảnh và cấu trúc. Nếu ta nhìn thấy cái gì đó có cấu trúc gần như thế, ta sẽ bảo đó là cái “ống” đã. Sau rồi ta mới tả các đặc trưng thực tại của nó về mầu sắc, về chất liệu. Cuối cùng ta có một cụm từ “cái ống xanh bằng nhựa”. Còn người nước khác, khi nhìn thấy cái ống sẽ làm văn tả cảnh thực tại. Họ nói mầu sắc, rồi cấu trúc, sau chất liệu thành ra cụm từ “a blue tube by plastic”.

Vậy cách nói của tiếng Việt là so sánh trước, miêu tả sau. Người Việt so sánh vật thể thực tại với những khái niệm có sẵn trong óc, sau đó bổ sung thêm các tính từ mô tả tính chất, trạng thái của đối tượng. Trong khi đó, dân Tầu, Nga, Mỹ, Pháp, Nhật,…sẽ mô tả tính chất, trạng thái của đối tượng trước, rồi dần dần mới lột tả vật thể bằng một danh từ. Do đó, đối với các ngôn ngữ khác, danh từ để sau (trong đa số trường hợp). Nhưng để so sánh thì khái niệm phải có sẵn trong óc. Do đó, trong quá trình hình thành các danh từ, khi học nói, học chuyên môn, người Việt đã xây dựng các khái niệm, rồi lưu trữ vào bộ óc. Đó là cách tư duy “tổng thể trước, chi tiết sau”. (Danh từ là từ để chỉ tổng thể của khái niệm. Tính từ là từ để chỉ trạng thái tính chất, tức là các chi tiết). Mặt tích cực của tư duy theo phong cách “tổng thể trước, chi tiết sau” là coi trọng cái thuộc tính chung, coi trong cấu trúc tổng thể. Nhưng mặt tiêu cực của phong cách tư duy đó là định kiến, bảo thủ. Ví dụ, khi nói đến cái bàn, mà không thêm tính từ mô tả bổ sung, thì phần lớn người Việt sẽ hình dung về một vật thể có 4 chân, bằng gỗ, phía trên có một hình chữ nhật phẳng. Họ ít khi nghĩ ngay đến cái gì ba chân, có mặt hình ô-van. Nhưng khi nói theo ngôn ngữ Mỹ, ta phải đặt tính từ ô-van và số chân lên trước rồi mới đến danh từ “cái bàn” ở vị trí cuối cùng. Như vậy ít khi hiểu sai ý của người đối thoại.

Từ những phân tích ở trên, ta thấy ngôn ngữ ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong cách tư duy. Nó là công cụ quan trọng nhất để tư duy. Có hai cách tư duy: đặt tổng thể lên trước hoặc là đặt chi tiết lên trước.

Nếu tư duy theo phong cách đặt chi tiết lên trước thì nhanh chóng tìm ra các thành tố, nhưng lâu đi đến khái niệm chung. Ngược lại, theo phong cách tư duy đặt tổng thể lên trước thì chóng tìm đến khái niệm, nhưng khái niệm lại có thể bị hiểu không nhất quán trong các bộ óc cá thể, như trường hợp thầy bói xem voi. Mỗi lối tư duy đều có điểm mạnh điểm yếu. Nhưng lối tư duy tổng thể khái niệm đặt trước, đôi lúc có thể đạt hiệu quả tập trung cực mạnh. Ví dụ, hồi thế kỷ XIII, nếu bạn trông thấy trên cánh tay một thanh niên có chữ “sát thát”, thì chắc chắn bạn biết ngay đó là một chiến binh sẵn sàng hy sinh “vợ đẹp, con khôn, giọng hát hay, bầu rượu béo” quyết tâm đánh giặc Nguyên Mông. Hoặc hồi thế kỷ XX đang đi trong rừng Trường Sơn mà gặp một cánh mũ “tai bèo” bạn cũng nghĩ như vậy. Mở rộng ra, cách nói, cách sử dụng ngôn ngữ theo kiểu “danh từ lên trước” là cách tư duy theo biểu tượng. Dân Việt rất giỏi tư duy theo biểu tượng, bởi vì ngàn đời nay, khi nói chúng ta đều đặt danh từ lên trước tính từ. Đó là di sản quý báu nhất của tổ tiên Lạc Hồng. Nếu xem ngôn ngữ là một cách sinh hoạt văn hoá, thì lối sinh hoạt văn hoá “danh từ trước tính từ” là một đặc điểm văn hoá qui báu nhất của dân tộc Việt Nam. Tất nhiên, một số dân tộc khác cũng có lối sinh hoạt ấy. Ví dụ Thái Lan, ,… nhưng thực tế các ngôn ngữ ấy đã biến thể theo các ngôn ngữ á Âu khác đến 80% rồi. Có lẽ chỉ còn duy nhất dân Việt là giữ được lối nói thuần Việt theo phong cách danh từ trước, tính từ, đại từ sau. Mặc dù chúng ta du nhập nhiều từ tiếng Hán, tiếng Pháp, tiếng Anh,… nhưng khi vào tiếng Việt các danh từ ấy vẫn phải tuân theo qui tắc ngữ pháp Việt .

Ngày nay, để phát huy di sản này chúng ta cần có biểu tượng cho mỗi công ty, xí nghiệp, mỗi trường học, mỗi tỉnh thành. Ví dụ, cán bộ và chiến sỹ công ty Viễn thông quân đội Viettel có câu “Viettel, hãy nói theo cách của bạn”. Đó là một biểu tượng ngôn ngữ. Biểu tượng này, gắn liền với logo hai cánh cung đỏ xanh nằm ngang đã tạo nên sức mạnh hành động chung của Viettel. Sức mạnh ngôn ngữ (hay đúng hơn sức mạnh văn hoá) ấy đã biến Viettel từ một công ty điện thoại nhỏ thành một tập đoàn viễn thông hùng mạnh trong vài ba năm.

Hiện nay, nhiệm vụ chính của nhân dân ta là chung sức xây dựng một xã hội phồn vinh và công bằng. Cần phải tạo ra biểu tượng ngôn ngữ, hay tạo ra khái niệm và danh từ cho công cuộc ấy. Sao cho mỗi khi nói ra mọi người cùng hiểu rõ, hiểu đúng toàn bộ nội dung của quá trình hành động chung. Biểu tượng ngôn ngữ ấy sẽ chảy trong huyết mạch Lạc Hồng và chẳng mấy dân ta, nước ta sẽ tiến lên đài vinh quang, sánh vai với các cường quốc như lời tiên đoán của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Thu San Nguyễn Thế Hùng ( hoinhavanvietnam.vn)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...

  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.

  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...

  • HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.

  • HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.