Ngôn ngữ và tư duy - trong nỗ lực hướng đến thơ hiện đại

10:28 15/11/2012

LƯỜNG TÚ TUẤN

Việc lý luận văn học thống nhất coi “ngôn ngữ là chất liệu của văn học” đã không vì thế mà dành cho cái chất liệu ấy một vị trí xứng đáng trong những luận thuyết và “diễn giải” của mình.

Nhà ngôn ngữ học Ferdinand de Saussure - Ảnh: wiki

Tình hình này của văn học khiến ta liên tưởng đến một thực trạng của ngôn ngữ học khi ngành khoa học này đã không vì coi “ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan trọng nhất của loài người” mà đi đến tìm hiểu xem nó được thiết kế như thế nào để có thể đảm nhận một cách hoàn hảo sứ mệnh cao cả của mình. Nỗi bất tương phùng này đã phải đợi đến khi ngôn ngữ học chức năng ra đời mới có thể tìm thấy cái cơ chế khớp nối ấy giữa mục đích phương tiện của ngôn ngữ. Tất nhiên, đối với văn học thì vấn đề cũng đã được giải quyết. Đó là cuộc bùng nổ của lý thuyết văn học trong suốt thế kỷ XX mà những người cách mạng đầu tiên là các đại biểu của chủ nghĩa hình thức Nga, sau đó là những nhà cấu trúc luận, ký hiệu học, và hậu cấu trúc luận.

Mặc dù vậy, lý luận hay phê bình văn học thường vẫn là kẻ tháp tùng văn học, cùng lắm là chỉ có thể đi song hành với nó mà thôi. Do đó, thi pháp học hiện đại dù đã có lúc chạm đến lý tưởng về một “khoa học văn học chính xác” nhưng nó vẫn không vì thế mà trở thành bệ phóng cho sự phát triển của văn chương. Tất cả những trường phái, những trào lưu, những cách tân của văn chương thế giới trong thế kỉ XX chắc chắn không phải được thành tạo trên những phát kiến chói lọi của thi pháp học thời đại mình.

Vậy thì đâu là căn nguyên? Phải chăng chính cái “chất liệu ngôn ngữ” của văn học đã mang trong nó những sức mạnh bí ẩn tạo nên nền tảng cho mọi sự đổi mới văn học? Triết học ngôn ngữ sau những bước đường thăng trầm của mình cuối cùng cũng dẫn ta tới ánh sáng.

Các triết thuyết lớn của nhân loại đều bàn về bản chất của ngôn ngữ trong những khuynh hướng và quan niệm khác nhau. Nhưng phải đến thế kỷ XX thì triết học ngôn ngữ mới thật sự ra đời cùng với chủ nghĩa hiện sinh mà nền tảng là hiện tượng học của Husserl, chủ nghĩa cấu trúc với cơ sở tư tưởng ngữ học hiện đại của F. de Saussure. Thuyết trò chơi ngôn ngữ của L. Wittgenstein, lý thuyết hậu hiện đại của F. Lyotar… Lùi về thế kỉ XIX, Marx khi bàn về nhận thức luận đã khẳng định “ngôn ngữ là công cụ của tư duy”. Engels cũng đã kết luận “trước hết là lao động và sau đó đồng thời với lao động là ngôn ngữ đã biến bầy vượn thành loài người”. Như vậy theo quan điểm của chủ nghĩa Marx, ngôn ngữ là sản phẩm của tinh thần và cái sản phẩm ấy chịu sự chế ước và thống trị của tuy duy. Hay nói theo ngôn ngữ của ngôn ngữ học thì ngôn ngữ là “vị từ” của “chủ từ” tư duy. Nó phụ thuộc hoàn toàn và trở thành phương tiện trong tay tinh thần. Phản ánh luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng đã cho ta một hình dung rằng: Ngôn ngữ là một tấm áo trong suốt có thể nhìn xuyên thấu vào bên trong để thấy được khái niệm do tinh thần sao chụp từ hiện thực khách quan, và sau đó cái thực thể được gọi là ngôn ngữ ấy đã quay trở lại làm “vẩn đục” tinh thần dưới dạng một lớp không khí chuyển động mà ta gọi là âm thanh. Cái nhìn biện chứng của chủ nghĩa Marx mặc dù đã cho thấy sự tác động trở lại của ngôn ngữ với ý thức nhưng tư tưởng chủ lưu của nó vẫn là cả quyết cái vị trí và công năng bé nhỏ của ngôn ngữ so với sức mạnh đè nén của tinh thần.

Đi lùi một bước nữa và ngược chiều lịch sử ta gặp Hamboldt với những quan niệm độc đáo về mối quan hệ giữa hiện thực, ngôn ngữ và tư duy. Mối quan hệ này có thể được thể hiện bằng dấu ngang nối (-) như sau: tồn tại - ngôn ngữ - tư duy.

Tuy nhiên cái dấu ngang nối này có một sự khác biệt rất lớn về tư tưởng với quan điểm của chủ nghĩa Marx. Hai công trình lý luận ngôn ngữ học nổi tiếng của Hamboldt là: “về sự hình thành các hình thức ngữ pháp và ảnh hưởng của chúng đối với sự phát triển tư duy” (1820) [1, tr.185] và “về sự khác biệt của thể chế ngôn ngữ loài người” (1830 - 1835) [1, tr.185], là nơi tập trung toàn bộ tư tưởng triết học ngôn ngữ của người thầy Đại học Đức. Và ba điểm lớn có thể rút ra từ hai công trình này trong tư tưởng ngôn ngữ học của Humboldt là:

1. Ngôn ngữ chẳng những là phương tiện giao tiếp mà còn là sự phản chiếu trí tuệ con người cũng như nghệ thuật và khoa học. Ngôn ngữ là sự thể hiện hình thức mà qua đấy cá nhân nhìn nhận thế giới và chuyển nó vào nội tâm của mình (chúng tôi nhấn mạnh).

2. Về phương diện xã hội, mỗi ngôn ngữ phản ánh tư duy của dân tộc dùng nó đồng thời nó cũng tác động tới tư duy đó. Ngôn ngữ tổ chức và hướng dẫn thế giới quan người nói. Thế giới quan ấy làm thành hình thức bên trong của ngôn ngữ, trong khi thức “hình thức bên ngoài” là cấu trúc ngữ âm, ngữ pháp…

3. Ngôn ngữ không phải là một “công trình” đã hoàn thành và bất di bất dịch, mà là một hoạt động đang diễn ra. Trí tuệ làm việc không ngừng để thích ứng âm thanh, chất liệu ngữ âm, với sự thể hiện của tư duy. “Chính hình thức ngôn ngữ với những quy tắc hình thái và cú pháp cho phép nâng đỡ “lao động đó của tư duy” [1, tr.185]

Những dòng chúng tôi nhân mạnh có thể giúp ta có được một hình dung sơ lược như sau về mối quan hệ của 3 “thế giới” đã được nói đến trong tư tưởng của Humboldt: Ngôn ngữ là thế giới trung gian, thế giới “ở giữa” hiện thực và tư tưởng. Cuộc hành trình của hiện thực vào tinh thần phải kinh qua miền đất ngôn ngữ; mà khi chuyến đi đã tới đích thì hiện thực đã bị biến dạng. Nó không còn là thế giới tự nó mà đã trở thành vật cho ta. Gần như là con người không nhìn thế giới bằng mắt mà bằng khuôn đúc của ngôn ngữ dân tộc mình. Ngôn ngữ trở thành tấm gương (chứ không phải cấu trúc của não bộ) phản chiến thế giới; con người bị bắt buộc phải tư duy trong hình thức đã đông cứng của ngôn ngữ. Nó trở thành người “tổ chức và hướng dẫn thế giới quan người nói”. Tóm lại, ngôn ngữ trong tư tưởng của Humboldt có tính độc lập và tự trị rất lớn. Nó không đơn thuần là “công cụ” hay phương tiện của một mục đích khác nào bên ngoài mà ngược lại, nó đóng vai trò là kẻ dẫn đường của tư tưởng.

Ngôn ngữ là một thế lực có quyền năng chi phối đến “suy nghĩ” của cá nhân và làm nên đăc trưng tư duy của cộng đồng, nó trở thành “hình thức bên trong” của tư tưởng, nó là tấm lưới laser phân cắt thế giới thành những “mảng” mà trên ấy tinh thần được thành tạo. Ngôn ngữ, vì vậy là một “hiện thực thứ hai” của tinh thần.

Mặc dù bị coi là duy tâm luận nhưng những “đóng góp độc đáo trong ngôn ngữ học của Humboldt đến nay vẫn còn giữ nguyên giá trị thời sự” [1, tr.183].

Quả vậy, lịch sử nhân loại đã chứng kiến một cuộc trở lại với những quan điểm khởi phát của Humboldt trong suốt thế kỉ XX với những trào lưu luận thuyết bùng nổ khắp châu Âu. Đó là một cuộc phiêu lưu tư tưởng thật sự. Và từ nay người ta đã có đủ thẩm quyền để nói về một “bước ngoặt ngôn ngữ học” hay “quyền lực ngôn ngữ” (Olga Balla).

Thoạt nhìn vào bức tranh tinh thần ấy người ta có cảm giác bị lạc vào một khu rừng nhiệt đới mà không thể tìm được lối ra. Nhưng nếu can đảm, bước hẳn vào trong, họ sẽ nhận ra mình đang trên một mặt đất mà cấu trúc địa chất là ổn định và vững vàng để có thể xây dựng lên những tòa tháp chọc trời, đủ chạm đến nơi ngự trị yên ổn của thượng đế suốt hơn 20 thế kỉ qua. Nền địa chất đó là gì? Và những tòa tháp nào đã được xây dựng?

Trong những phát minh trứ danh của mình, có hai quan điểm mà de Saussure đã di chúc lại cho hậu thế để từ đó khoa học nhân văn tiến những bước tiến dài trong lịch sử, đó là quan điểm “ký hiệu học” và quan điểm “hệ thống”. Nếu quan điểm sau là cơ sở cho chủ nghĩa cấu trúc và hậu cấu trúc thì quan điểm trước là nền tảng của ký hiệu học.

Chủ nghĩa cấu trúc (Structuralism/Structuralisme) như sự xác nhận của chính các đại biểu của nó: không phải là một học thuyết, một hệ tư tưởng mà là một phương pháp. “Tuy nhiên, do tính chất rộng lớn của các vấn đề được nghiên cứu, cả xu hướng muốn sử dụng phân tích cấu trúc làm phương pháp chung cho mọi khoa học và tri thức đã đưa đến những hệ luận triết học” [2, tr.35]. Sau lời ai điếu của Nietzsche cho “Cái chết của thượng đế” vào thế kỷ XIX thì đến giữa thế kỉ XX, chủ nghĩa cấu trúc mà người phát ngôn là M. Foucault đã tống tiễn con người ra khỏi triết học. Đến đây, “toàn bộ sự tò mò của chúng ta chuyển sang vấn đề ngôn ngữ là gì?”. Và từ đó, ngôn ngữ, trong con mắt của các nhà cấu trúc luận, trở thành một lực lượng thống trị tư duy và nhận thức. “Không phải vì tôi là A nên tôi nói theo cách x+1 mà vì tôi nói theo cách x+1 nên tôi là A” [dẫn theo, 2]. Mối quan hệ giữa thực tại và tư duy đã không còn đơn giản là một cơ chế phản chiếu của tấm gương hay những vết hằn trên sáp nến nữa. Ngôn ngữ đã can thiệp vào quá trình này và trở thành con mắt của tư duy. Chúng ta bắt buộc phải nhìn ngắm thế giới theo thiết chế của ngôn ngữ.

Bản thân ngôn ngữ không phải là tư tưởng, cũng không phải là âm thanh “mà là trung gian giữa tư duy và ngữ âm trong những điều kiện như thế nào mà sự kết hợp giữa hai cái đó tất nhiên dẫn đến chỗ cái này phân định đơn vị cho cái kia” [3, tr.218]. Và điều sau đây là quan trọng: “chỉ có những sự liên hệ được ngôn ngữ thừa nhận mới được coi là phù hợp với hiện thực”. [3, tr.139]. Như vậy sẽ không bao giờ có một “vật tự nó” tồn tại biệt lập với con người mà sẽ luôn là vật đã được ngôn ngữ hóa; và tư duy, cũng vậy, dù có siêu việt đi nữa thì cũng chỉ có thể tung hoành trên cái “hiện thực trực tiếp” của nó là ngôn ngữ mà thôi.

Sau giai đoạn cấu trúc luận, chính các đại biểu của nó lại là những người tự “giải” tư tưởng của mình để bước vào một cuộc phiêu lưu mới - cuộc phiêu lưu của hậu cấu trúc/ giải cấu trúc (Decontruction). Giải cấu trúc là nơi chứng kiến sự thần thánh hóa ngôn ngữ thật sự, và điều đó trở thành một “sự kiện trọng đại của các tư tưởng trong thế kỉ XX” [86]. Heidegger, Deleuze, Blanchot, Bataille, Faucault, Artaud, Lacan… và đặc biệt là Derrida với khái niệm “Deffirance” của mình đã cho ta những ý niệm về một cuộc đuổi bắt vô tận của ý nghĩa trong cái hệ thống dấu hiệu của những sự phân biệt mà ở đó từ ngữ này gọi dậy từ ngữ khác, âm thanh này kết nối với quan niệm kia tạo thành một chuỗi không bao giờ đi đến chung cục. “Deffirance” mang trong nó cả hai nét nghĩa là “phân biệt” và “trì hoãn”; nếu sự trì hoãn làm cho thế giới không bị trượt vào hư vô và trở thành hữu thể thì sự phân biệt sẽ trở thành một cuộc rượt đuổi chạy mãi về phía trước để đến lúc ngoái nhìn lại thì nơi đã khởi phát chỉ còn là những ký ức xa xăm.

Tư tưởng của hậu cấu trúc không phải được sinh thành ở một nơi bí ẩn nào cả, nó được xây lên từ ngữ học Saussure, mà quan điểm trực tiếp là tính hệ thống của ngôn ngữ. “Nội dung của một từ chỉ thực sự được xác định với sự giúp đỡ của những cái gì tồn tại bên ngoài từ đó” [3, tr.223]. “Khi nói rằng những giá trị đó tương ứng với những khái niệm, người ta muốn nói rằng những khái niệm này có tính chất khu biệt thuần túy, được xác định không phải một cách tích cực do nội dung của nó, mà là một cách tiêu cực do những quan hệ giữa nó với yếu tố khác của hệ thống. Đặc điểm chuẩn xác nhất của nó là ở chỗ nó không phải là cái khác và những cái khác không phải là cái gì thì nó chính là cái ấy” [3, tr.226]. Nếu những luận điểm này đã làm cơ sở cho chủ nghĩa cấu trúc với tính đóng kín của văn bản thì cũng chính nó đã gợi ý cho các nhà hậu cấu trúc phá vỡ cái hệ thống tự trị ấy và mở ra một môi trường liên văn bản khổng lồ; thành ra, trong con mắt của các nhà hậu cấu trúc tất cả đều là văn bản và việc giải nghĩa văn bản là một quá trình quy chiếu liên văn bản bất tận.

Câu hỏi xuyên suốt thế kỉ lại được đặt ra: Ngôn ngữ là gì? Và Grossman mượn lời của các triết gia để trả lời rằng: “Chính xác đó không phải là cái mà người ta vẫn tưởng như trong những thế kỉ trước: “đặc trưng của con người”, cái tạo nên đặc trưng riêng của nó và khiến nó hoàn toàn khác với động vật, nếu không muốn nói thêm là với sỏi đá vô tri. Trái lại, khám phá của thế kỷ XX là: ngôn ngữ chính là bản chất phi nhân của con người. Ngôn ngữ chính là cái chia cắt con người khiến cho con người trở nên khác với chính nó (Freud, Lacan), con người không bao giờ có ngôn ngữ như là “của riêng”, mà con người luôn luôn xa lạ với ngôn ngữ (Derrida, Dezeuze), ngôn ngữ là một cõi vô tận mà tiếng thì thầm vĩnh cửu đe dọa khiến con người phát điên (Blanchot, Artaud). Chắc hẳn từ đó mà có nhiều đam mê dành cho văn học, cho thơ ca mà các nhà tư tưởng này chia sẻ với chúng ta” [4].

Như vậy đến hậu cấu trúc, ngôn ngữ đã tự mình trở thành người “diễn giải” của văn bản. Nhưng một nửa của vấn đề vẫn còn để ngỏ: ai là người kiến tạo? Jean Francois Lyotar sẽ trả lời chúng ta trong lý thuyết hậu hiện đại (postmoderne) của ông. Cuốn sách đánh dấu sự ra đời của thuyết này là “Hoàn cảnh hiện đại” (La Condition postmoderne). Từ sự vận dụng lý thuyết “Trò chơi ngôn ngữ” của Wittgenstein, Lyotar đã đi đến kết luận xem tất cả những văn bản từ Đại tự sự/ truyện lớn (grand récit/ meta récit) đến những vi văn bản (petit récit) đều là những “câu chuyện”. Ở đó, từ những hệ thống triết học khổng lồ, đến những công trình khoa học hay những chuyện kể dân gian đều thực chất là những diễn ngôn (discours), những “tự sự” với những luật chơi riêng của chúng. Trong học thuyết này, “tiền đề” là một khái niệm trung tâm.Tiền đề trong nghĩa hậu hiện đại là một nhóm quy luật phải chấp nhận để chơi trò chơi tự biện” [5]. Và như vậy triết học Hegel cũng chẳng hơn gì một câu chuyên cổ tích thần kì hay một bài ca dao bởi diễn ngôn triết học dựa trên những tiền đề, những luật chơi riêng của mình cũng giống như truyện cổ tích có luật chơi riêng của nó vậy. Không phải vì nó khách quan hay nghiêm xác mà vì nó dựa trên một số “thỏa ước” mà kẻ tham gia phải mặc nhiên chấp nhận, cái mà người ta gọi là nội hàm và ngoại diên của khái niệm chính là võ đài của khoa học, nếu bước ra khỏi lãnh địa ấy nó sẽ “sai” bởi đã vi phạm luật chơi/ tiền đề.

Cuốn sách thứ 2 đi sâu hơn vào vấn đề này là Le defférend (1983) mà Thụy Khuê dịch là “Bất đồng”, Bùi Văn Nam Sơn dịch là “Sự tranh chấp”. Bất đồng theo quan điểm của Lyotar là bất đồng của ngôn ngữ, và đơn vị ngôn ngữ hiển nhiên được ông khảo sát là câu. Trong một câu luôn luôn tồn tại những “ý” chống đối nhau, tranh chấp nhau, mâu thuẫn nhau và như vậy “không thể đưa ra một luật chơi chung, một thứ siêu ngôn ngữ để áp dụng cho mọi cách hành ngôn được” (Thụy Khuê). Sự kiến tạo hành ngôn, vì vậy trước hết là sự xác định những tiền đề, những luật chơi của từng dạng văn bản, văn chương (récit) để từ đó mà xác lập chân lý (cái đúng) trong lãnh địa của mình (và chỉ trong giới hạn ấy mà thôi). Việc chấp nhận một trò chơi đồng nghĩa với việc ta phải chịu sự chi phối và điều khiển của nó, và ở đây ngôn ngữ đã trở thành kẻ sáng tạo.

Tư tưởng triết học của thế kỉ XX là vô cùng phong phú và phức tạp không thể quy gộp một cách giản đơn về một ý hệ thống nhất nào nhưng gần như tất cả chúng đều được thành tạo trên cơ sở của ngôn ngữ học và cùng trong một nỗ lực khẳng quyết sức mạnh tự trị và chi phối của ngôn ngữ đối với tinh thần. Thi ca hiện đại với tri năng của các nhà tiên cảm, một cách ẩn mặc hay hiển minh, đã nắm bắt được cái bản thể ấy của ngôn ngữ và đi đến những thao tác cách tân triệt để. Thế hệ các nhà thơ Trần Dần, Dương Tường, Đặng Đình Hưng, Thanh Tâm Tuyền… và Lê Đạt, mỗi người một chân trời, cùng lao động trong “ngôi nhà của hữu thể” (Heidegger) đưa thơ Việt nhập vào dòng chảy với thơ hiện đại thế giới chính là xuất phát từ những “sự thức nhận ngôn từ” này.

L.T.T
(SH285/11-12)




......................................
[1]. Trúc Thanh (1984), Những cơ sở triết học trong ngôn ngữ học, Nxb Giáo Dục.
[2]. Trịnh Bá Đĩnh (2002), Chủ nghĩa cấu trúc và văn học, Nxb Văn học - Trung tâm nghiên cứu Quốc học.
[3]. De Saussure F. (2005), Giáo trình ngôn ngữ đại cương (Cao Xuân Hạo dịch), Nxb Giáo Dục.
[4]. Evelyne G, Tính phi nhân hiện đại, nguồn http://vanhoanghean.vn.
[5]. Lyotard J. F. (2007), Hoàn cảnh hậu hiện đại (Ngân Xuyên dịch), Nxb Tri Thức.







 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!

  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.

  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H

  • TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.