MAI KHẮC ỨNG
Tùy bút
Từ Luân Đôn máy bay của hãng hàng không British Airways đưa chúng tôi sang Boston vào chiều ngày 10 tháng 9 năm 2001. C. David Thomas, Giám đốc trường Mỹ thuật Đông Dương bên Mỹ đón chúng tôi về nhà riêng tại 20 Welster Court Neuton Centre.
Tượng nữ thần Tự do ở Mỹ - Ảnh: wiki
Vừa bước vào sân cỏ tôi đã đối mặt với một chiếc xe xích lô Hà Nội trước bậc thềm. Ngước mắt lên lại thấy thêm lá cờ ngũ hành đang gọi gió. “Đồng hương”. Tôi buột miệng nói khẽ với mình. Hai cái “đồng hương” ấy xóa ngay sự bở ngỡ bởi lần đầu tôi được đặt chân lên xứ Tân Thế Giới ở mạn tây bán cầu này.
Nhà của một họa sĩ hạng ngang làm bằng gỗ. Hai tầng. Ban công cũng gỗ. Tường dày dễ chừng đến 0,50m. Ấy là tôi nhìn bên mép cửa. Lúc đầu tưởng là nhà xây. Gõ nhẹ nghe bộp bộp như mõ. Thì ra là những tấm ván ghép lại rồi dán một loại giấy lên. Hàng mã. Đất nước này giàu có là phải. Mối mọt không. Ruồi nhặng không. Chỉ mấy loài đó thôi, ở quê tôi đủ làm cho con người điêu đứng.
Cơm nước xong, C. David trao cho chúng tôi chương trình tổng quát của ba mươi ngày lang thang trên đất Mỹ. Massachusetts, NewYork, Geor- gia, Tennessee, California. Xuống cánh tại Boston. Xuất cánh từ SanDi- ego. Không thêm, không bớt. Ford Foundation đãi chúng tôi đến thế là đã quá hậu. Thêm bớt với ai đây. C. David chỉ là người được ủy quyền thừa hành tổ chức thực hiện. Ân tình nặng trong suốt chuyến đi. Ân tình nặng cho đến hôm nay đã ngấm đủ mười năm tôi ngồi bên bàn, nhớ ơn Ford Foundation nên gõ.
Chương trình tham quan hai điểm đầu là Trung tâm Thương mại và tượng thần Tự do ở NewYork vào sáng 11 tháng 9. Cái mong đến Mỹ để được chiêm ngưỡng tháp đôi cao bởi tầm người và ngắm tượng thần Tự do, khát vọng bởi lòng nhân loại. Tôi háo hức từ lâu. Tôi thèm khát từ lâu. Dễ chừng từ khi biết làm người. Thần Tự do đứng trên đất Mỹ rọi xa khắp năm châu. Ai mà không háo hức.
Jean Thomas (họa sĩ phu nhân) chuẩn bị điểm tâm khá rườm rà. Và, nhờ cái rườm rà ấy, chúng tôi chưa ra khỏi nhà đã nhìn thấy tai họa thương tâm.
“Bọn giết người bắt máy bay chở khách đâm vào NewYork”. Màn hình mở. Hai cái máy bay lầm lì lao đầu vào hai tòa tháp. Khói bùng lên. Lửa bốc cao. Những mãnh vở. Những con người. Bung ra giữa không gian vẽ nên nỗi đau nhân thế cùng với sự ghê tởm và căm giận khắp hoàn cầu.
Hai tòa tháp là nơi đến và nơi đi của cộng đồng nhân loại bị bọn khủng bố phá. Quê hương sinh thành của tuyên ngôn về quyền sống, quyền bình đẳng, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc đang bị xúc phạm.
Người Mỹ quặn đau bởi quá bất ngờ. Tôi nhức nhối bởi ngoài sức tưởng tượng. Thế mà tất cả dường như hết sức bình tĩnh. Màn hình tivi nhắc lại nhiều lần như thể để mọi người nhìn cho thật rõ tội ác man rợ nhất trong lịch sử loài người, nhìn cho rõ để chung sức chung lòng mà tiêu diệt mọi cái ác trên thế gian này.
Làm người, từ khi biết thế nào là tôn giáo, tôi vốn thần phục, trân trọng đạo Hồi bổng nhiên kinh tởm bọn nhân danh nó. Căm thù nước Mỹ hay hàm ơn nước Mỹ. Ghét nước Mỹ hay yêu nước Mỹ là quyền của mỗi người. Nhưng lợi dụng sự thân thiện để lấy dân lành giết hại dân lành thì như vậy là vô đạo.
Nhân loại quằn quại trước mắt tôi khi hai tòa tháp NewYork sụm dần và bị xóa sổ. Công trình tài năng, trí tuệ tiêu. Khói lửa và sự tan tác hằn giữa không trung ám ảnh trong ký ức loài người thì không giới hạn.
Thế là nơi mơ ước đến, tôi đang đến nhưng không thành. Thìa cà phê sáng tại 20 Welster Court Neuton Centre nhỡ đưa vào miệng như pha bằng nước mắt chính mình. Đắng mà mặn không làm sao nuốt được. Tôi và chúng tôi chung bàn trong buổi sáng đó đều rưng rưng nước mắt.
Ba ngày sau, như chương trình đã xếp, chúng tôi xuống Atlanta thủ phủ Georgia. Thế là thần Tự do chưa thấu vào tâm khảm tôi.
“Đến Atlanta mà không nhìn thấy Stone Moutain coi như chưa đến”.
Nguyễn Thượng Hà đón chúng tôi rồi nói thế.
Ừ thì đến.
![]() |
Stone Mountain - Ảnh: wiki |
Stone Mountain chỉ là một viên sỏi “mồ côi” cao khoảng 180m dài khoảng 500m nằm giữa bình nguyên xanh từ lâu trong tâm tưởng của cư dân Creek và Cherokee (người da đỏ bản địa) là nơi thắp sáng ngọn lửa lúc hoàng hôn.
Thì ra, hễ khi mặt trời lặn sang phía Thái Bình Dương, vạn vật quanh viên sỏi đều chìm vào bóng tối huyền ảo thì cao trên đỉnh núi vẫn lung linh một thoáng tà huy lóe sáng giữa không trung.
Người xưa chưa biết được sự cong của mặt đất nên coi đó là ngọn lửa hoàng hôn.
Và, chính nơi từng thắp sáng ngọn lửa hoàng hôn ấy hiện thời là tượng đài ba nhân vật huyền thoại đã đi vào quá khứ 150 năm.
Đó là:
Jefferson Davis, Tổng thống Hợp bang.
Robert E. Lee, Tổng chỉ huy chiến hữu Hợp bang.
Thomas Jackson, bức tường đá (Stonewall).
Hỏi ra mới biết họ là ba trong số bảy nhân vật đứng về một phía của cuộc nội chiến Mỹ 1861 - 1865 và đã thua trận.
Báo chí và chính sử Mỹ, quy cho họ là những kẻ đã chống lại chủ trương tiến bộ của Abraham Lincoln, Tổng thống Liên bang về giải phóng nô lệ và thống nhất Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.
![]() |
Ảnh: wiki |
Nếu quả vậy thì tội của họ nặng lắm. Cớ chi lại có tượng đài cao trên đỉnh núi. Ba người ngồi trên lưng ngựa uy nghi lẫm liệt, mắt nhìn thẳng về hướng Bắc. Ba con ngựa chưa chùng dây cương chồn chân chực lao về phía trước.
Một chút băn khoăn dấy lên. Một chút thôi thúc tò mò. Tôi nhủ mình. Không hẳn thế hay không hoàn toàn hẳn thế. Suy tư rồi tần ngần đếm bước bên mép hồ nhìn từng cột nước phun lên sáng trắng như những đài hoa bạch ngọc dưới chân Stone Mountain cũng có nghĩa là dưới chân tượng đài, tôi sửng sờ bắt gặp mấy dòng chữ khắc vào một tấm đá trải phẳng giữa lòng đường:
“Vậy đó con trai của cha. Khi mây mù và bóng đen kéo đến trong cuộc tranh đấu cho cuộc đời, đừng do dự khi đứng ở vị trí của con: Hãy giữ niềm tin để hoàn thành sứ mạng của mình”. Robert E. Lee
Bia không dựng mà trải dưới chân người đời. Lịch sử nội chiến đã đi qua một thế kỷ rưỡi. Hàng triệu người đã đi qua tấm bia đá nằm ngửa giữa lòng đường. Nhưng mấy ai nghĩ khác về nguyên nhân nội chiến! “Hãy giữ niềm tin để hoàn thành sứ mạng của mình”. Hai cha con cùng ra trận lẽ nào chỉ để chống lại chủ trương giải phóng ngót bốn triệu nô lệ như chính sử nước Mỹ đã ghi mà có lẽ còn điều gì cao cả hơn. Ngày đó và nhiều năm về sau, nô lệ chưa phải là điều gì to tát ở xã hội Mỹ. Vả lại, giữa thế kỷ XIX, vị trí người nô lệ chưa trở thành mục tiêu nhân văn như ta tưởng, chưa thôi thúc đến nỗi phải đổ máu. Bởi, nô lệ vẫn tồn tại cả Bắc lẫn Nam cho đến những năm cuối thế kỷ đó. Như vậy có nghĩa là nô lệ chưa phải là nguyên nhân chính của bất hòa làm nên nội chiến. Hơn nữa, chủ trương giải phóng nô lệ mà Abraham Lincoln, Tổng thống Liên bang tuyên bố không phải diễn ra trước ngày khởi sự đánh nhau mà vào cuối năm 1862, khi cuộc chiến đã đi gần một nửa thời gian của nó. Lẽ nào nguyên nhân nằm sau hệ quả.
Robert E. Lee, một người từng hô hào giải phóng nô lệ, từ chối cương vị Tổng chỉ huy quân đội Liên bang để rời miền Bắc về miền Nam chiến đấu bên cạnh Jefferson Davis và Thomas Jackson chỉ vì lý tưởng tuyên ngôn lừng danh ngày 04 tháng 7 năm 1776 khai sinh Hợp chủng quốc Hoa Kỳ rằng: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng”. Thực tế, qua hai năm đụng độ Bắc - Nam Abra- ham Lincoln nhận thấy quân đội Liên bang của ông mỗi ngày một nao núng, phân tâm và Thủ đô Washing- ton có lúc đã bị uy hiếp, mới vội vả tuyên bố chủ trương giải phóng nô lệ. Phải chăng, điều đó như là một biện pháp cứu nguy rồi về sau người ta quy thành nguyên nhân nội chiến để che đi một cái lý do khác đáng xấu hổ hơn. Duy trì hay xóa bỏ chế độ nô lệ là cái cớ cho bên thắng mượn mà rửa mặt đó thôi.
Sau ngày giành được độc lập từ tay Vương quốc Anh sự cân bằng thể chế xã hội giữa các tiểu bang như là một nhu cầu cân bằng thế lực trong Quốc hội. Có nhìn thấy cả chuỗi phát triển Hợp chủng quốc Hoa Kỳ mới nhìn thấy đầu nguồn của nguyên nhân nội chiến. Bởi sự cân bằng ấy luôn luôn bị lệch. Thỏa hiệp Missouri ra đời năm 1820 khi mỗi bên theo chế độ tự do hoặc chế độ nô lệ đều có 11 tiểu bang lấy vĩ tuyến 36,30 làm giới hạn tạm yên thì ba mươi năm sau, chiến tranh biên giới với Mexico xảy ra. Phía nam có thêm 8 tiểu bang mới thì tương quan Bắc - Nam lại không ổn. Trong thời buổi đó 13 tiểu bang phía bắc luôn luôn tự coi mình là “khai quốc công thần” như những con chim đầu đàn trong cuộc chiến tranh giành độc lập, thường xử sự với các tiểu bang phía nam y như Vương quốc Anh cư xử với các thuộc địa Bắc Mỹ trước đó. Tính kẻ cả thực dân như chính quốc muốn coi phía nam chỉ là thị trường cung cấp nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm. Hạn chế kìm hãm miền Nam giao thương xuất nhập khẩu như một chủ trương thầm lặng.
Vì danh dự và niềm tự hào xứ sở 13 thuộc địa đã đứng lên làm cuộc chiến tranh giải phóng giữa thế kỷ XVIII và có lẽ cũng từ tinh thần tự chủ như thế, các tiểu bang phía nam mới buộc lòng cho ra đời Hợp bang vào giữa thế kỷ XIX.
Robert E. Lee bỏ cương vị Tổng Tư lệnh Liên bang từ phía bắc về nam chiến đấu bên cạnh Jefferson Davis rồi thanh thản hạ vũ khí đầu hàng tướng Ulysses S. Grant, từng là bạn chiến đấu thủy chung của mình trong cuộc chiến tranh giải phóng.
“Tôi sai lầm hay đúng đắn, thì Đức Chúa Trời sẽ phán xử. Loài người không được xét xử tôi. Miền Nam chỉ được lựa chọn giữa sự hủy diệt hay là sự lệ thuộc đê hèn hơn cái chết. Tôi không lấy làm hổ thẹn vì dự tính bắt cóc một người đã tạo ra nhiều bất hạnh riêng cho miền Nam”.
Không bắt cóc được thì ám sát. Joln Wikes Booth uất ức, manh động vì động cơ cá nhân hay vì một lẽ gì lớn hơn. Ngoài Joln Wikes Booth còn ai bất bình như vậy không? Thiết nghĩ việc này thuộc về các nhà sử học nước Mỹ, thuộc về ngành lịch sử nước Mỹ. Tôi xía vào một chút khi lặng ngắm tượng đài trên ngọn lửa hoàng hôn Stone Mountain là để chiêm ngưỡng tác phẩm điêu khắc được người đời coi như là kỳ quan thứ 8 của nhân loại với sự ái mộ cái tâm, cái tình, cái tài của Hiệp hội Đoàn kết những người con gái của Chính phủ Hợp bang (UDC), của gia đình Venable chủ sở hữu đã hiến tặng vách núi nơi có ngọn lửa hoàng hôn, của các nhà điêu khắc Gutzon Borglum (thực hiện từ năm 1916 đến năm 1924), Augustus Luke- man (từ năm 1925 đến năm 1928) và Roy Faulkner (làm mới từ năm 1958 đến năm 1970) và của Hiệp hội đài tưởng niệm Núi Đá (Stone Mountain Memorial Association).
Kể từ năm 1912, khi bà Helen, thành viên của UDC đề xuất xây dựng tượng đài nơi có ngọn lửa hoàng hôn đến năm 1972 trải qua sáu thập kỷ (đâu phải một ngày) với ba lần thay đổi nghệ nhân điêu khắc và phương pháp tạo tác (đâu phải một người) mới hoàn thành mỹ mãn. Nếu không là kỳ quan thì cũng là kỳ công đáng trân trọng.
Đúng hay sai lịch sử đã an bài. Tượng đài cao trên đỉnh núi như thể đã bước vào cõi vĩnh hằng. Ngọn lửa lúc hoàng hôn nhắc lại một ngày sáng nắng.
M.K.Ư
(SH294/08-13)
TRẦN THÙY MAI.Năm giờ sáng, máy bay chở chúng tôi đáp xuống sân bay Incheon. Giọng nói ngọt ngào của nữ tiếp viên vang lên với lời cảm ơn và câu chào tạm biệt, sau khi báo một thông tin làm chúng tôi ớn lạnh: Nhiệt độ bên ngoài là 4 độ C...
ĐẶNG NHẬT MINHLà một thương cảng của Nhật Bản, nhưng Fukuoka lại được nhiều người biết đến như một thành phố của nhiều hoạt động văn hoá mang tầm quốc tế. Tôi có duyên nợ với thành phố này từ năm 1991 khi được mời tham dự Liên hoan phim quốc tế Fukuoka lần thứ nhất với bộ phim Bao giờ cho đến tháng 10.
PHẠM XUÂN PHỤNGChữ tea trong tiếng Anh là do dùng mẫu tự La -tinh để ký âm chữ trà (âm Hán Việt) mà người Trung Hoa nói rất rõ là chè. Lâu nay cứ tưởng chè là tiếng thuần Việt hoặc là biến âm của trà, hóa ra chè lại là từ gốc của trà. Mẹ mà nhầm là con, vui thật.
BÙI NGỌC TẤNLần đầu tiên đặt chân tới Châu Âu, có biết bao nhiêu ấn tượng. Ấn tượng về những nét mặt người, về những dáng người đi, về bầu trời không vẩn bụi trong veo, về những xa lộ, về những chiếc xe phóng với tốc độ 140 kilômét không một tiếng còi, nối nhau trên các con đường tám đến mười làn xe chạy không còn biên giới cách ngăn...
NGUYỄN VĂN DŨNGCó người nói Praha đẹp hơn Paris . Tôi không tin. Nhưng bây giờ thì tôi thấy nhận xét ấy không phải không có căn cứ. Praha là thành phố cổ kính nguyên vẹn nhất châu Âu, là “thành phố của trăm tháp vàng”, là “bài thơ bằng đá”, là khúc hát đắm say, là cốc rượu nồng nàn, là bức tranh tuyệt mĩ, là mảnh thời gian còn sót lại... Năm 1992, Praha được công nhận là di sản văn hoá thế giới.
PHẠM THỊ CÚCCó người nghĩ rằng, ở các nước giàu, thì ít người thất nghiệp. Không đâu, ở Pháp, người thất nghiệp cũng khá nhiều, mà đâu phải vì không có bằng cấp mà thất nghiệp, đa số họ đều có bằng kĩ sư, cử nhân, cả thạc sĩ hẳn hoi.
NGUYỄN VĂN DŨNGAmazon là tên khu rừng lớn nhất thế giới. Amazon cũng là tên con sông, theo khảo sát mới đây, là con sông dài nhất thế giới. Amazonas, quê hương của hai Amazon kia, là bang rộng nhất trong 26 tiểu bang của Brasil - rộng hơn cả diện tích của nước Anh, Đức, Pháp, Ý cộng lại. Còn Manaus, là kinh đô của Amazonas miên man núi rộng sông dài.
NGUYỄN VĂN DŨNG Tôi thật sự xúc động khi đứng trước ngôi mộ của Lý Tiểu Long. Trước đây tôi hình dung nơi an nghỉ cuối cùng của anh phải là một ngôi đền cực kỳ tráng lệ cho xứng với tên tuổi lẫy lừng của anh. Sau khi anh mất, một tờ báo ở Sài Gòn hồi đó viết đại loại trong thế kỷ XX, anh là một trong ba nhân vật nổi tiếng nhất châu Á.
NGUYỄN VĂN DŨNGVới Phật giáo, Linh Thứu là ngọn núi thiêng. Sau khi thành đạo, một thời gian dài Linh Thứu là trú xứ của đức Phật và các đệ tử của Ngài. Tại đây Ngài đã giảng kinh Pháp Hoa và nhiều bộ kinh quan trọng khác. Linh Thứu còn là nơi khởi phát dòng Thiền Ấn Độ để rồi từ đây hạt giống Thiền được gieo trồng khắp nơi trên trái đất.
PHẠM PHÚ PHONGTrong lịch sử đất nứơc Trung Hoa có sáu nơi được chọn làm thủ đô, theo thứ tự Lạc Dương, Tây An, Nam Kinh, Khai Phong, Hàng Châu và Bắc Kinh là thủ đô thứ sáu, tồn tại cho đến ngày nay. Bắc Kinh đầu tiên là kinh đô của nước Yên, nên còn gọi là Yên Kinh, sau đó đến thời Minh Thành Tổ cho xây dựng trở thành Bắc Kinh ngày nay. Với diện tích 18.826 km2, Bắc Kinh rộng gấp 18 lần so với thủ đô Hà Nội, được mệnh danh là thành phố bốn nhiều: nhiều người, nhiều xe, nhiều cầu vượt, nhiều di tích...
Từ một trại lính đầy vết đạn ở vùng California (Hoa Kỳ) đã xuất hiện một tu viện Phật giáo - Tu viện Lộc Uyển - do nhà sư gốc Huế - Thiền sư Thích Nhất Hạnh - gầy dựng. Tại đây, ảnh hưởng của Thiền học Việt Nam đã tạo được một sự chuyển hóa đầy thử thách: biến trung tâm luyện tập bắn súng trở thành thiền đường đầy ánh sáng và tình thương, có ảnh hưởng rất lớn đối với nhiếu người ở Hoa Kỳ.Sông Hương xin giới thiệu bài viết của Teresa Wattanabe đã đăng trên tờ Los Angeles Times, tờ nhật báo lớn hạng ba của Hoa Kỳ, với bản dịch của Làng Mai và ảnh của Nguyễn Đắc Xuân để giới thiệu với bạn đọc như một dòng chảy của văn hóa Phật giáo xứ Huế.
TRẦN THÙY MAICác quan chức ngành khí tượng Nhật Bản đã cúi gập mình xin lỗi toàn dân: Hoa anh đào sẽ nở ngày 23 thay vì 16 - 3 như dự báo. Đến sân bay Narita vào đúng sáng 24, tôi tự nghĩ mình đến rất kịp thời, nên khi cậu cảnh sát làm thủ tục nhập cảnh hỏi về mục đích đến Nhật, tôi đã không ngần ngại trả lời chắc nịch: “Ngắm hoa anh đào”. Cậu cảnh sát khoanh cái rụp vào lời khai của tôi và “OK” ngay với một nụ cười trên môi.
NGUYỄN VĂN DŨNGNằm giữa trung tâm bán đảo Iberia, thủ đô Tây Ban Nha trải rộng trên các ngọn đồi dưới chân rặng Sierra de Guadarrama, ở độ cao 640m so với mặt nước biển - là thành phố cao nhất châu Âu. Diện tích 607 km2. Dân số gần 4 triệu người.
KEVIN BOWEN
(Giám đốc WJC)
LTS: Trong 25 năm qua tên tuổi nhiều nhà văn, nhà thơ của Trung tâm William Joiner (Đại học Massachusetts - Hoa Kỳ) như Kevin Bowen, Fred Marchant, Nguyễn Bá Chung, Lady Borton, Martha Colline, Bruce Weigl, Lary Heinemann... đã xuất hiện trên Sông Hương cũng như trên nhiều báo chí văn nghệ, văn hoá trong nước với những tác phẩm tâm huyết, mến yêu đất nước Việt Nam cũng như những hoạt động trên các lãnh vực giao lưu văn hoá, giúp đỡ y tế, giáo dục cho Việt Nam sau chiến tranh, như những biểu hiện của sự ân hận, tủi hổ với những gì mà đất nước họ đã gây ra trên mảnh đất này.
NGUYỄN BÁ CHUNG
Tháng 10 năm 2007 đánh dấu 25 năm thành lập trung tâm Joiner. Nhưng với tôi, nó đánh dấu một đoạn đường 20 năm nổi chìm với trung tâm, trong đó có 15 năm làm thiện nguyện và 10 năm cuối cùng làm việc chính thức. Hai mươi năm là một thời gian dài đủ để nhìn lại, ghi lại một số kỷ niệm và rút ra một số kinh nghiệm để nhìn tới đoạn đường phía trước.
NGUYỄN ĐẮC XUÂNHoạt động yêu nước ở miền Nam từ những năm sáu mươi của thế kỷ trước, tôi không lạ gì nước Mỹ. Thuở ấy, Phan Ch. anh bạn vong niên của tôi làm phiên dịch ở cơ quan MACV ở Huế từng bảo tôi “Người Mỹ giống như một cậu bé con nhà giàu nhưng thiếu lễ độ”.
VÕ QUÊNhận lời mời của Hội đồng quốc gia vì nghệ thuật truyền thống Hoa Kỳ (National Council for the Traditional Arts), đoàn nghệ sĩ thuộc Hội Văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế đã tham dự Festival dân ca dân nhạc tại thành phố Lowell, bang Massachusetts, Hoa Kỳ từ ngày 25-7-1995.
NGUYỄN XUÂN THÂMChúng tôi đến Aten vào cuối tháng chín, mà buổi trưa vẫn còn oi bức như bao trưa miền biển ở Việt . Thanh Tùng và tôi loay hoay mãi vẫn không bắt được taxi để chuyển tiếp đến sân bay nội địa.
NGUYỄN VĂN DŨNGSau Cali tôi định đi Dallas, nhưng rồi chuyển hướng, tôi lên Seattle theo vẫy gọi của bạn bè. Ai ngờ cái thành phố nầy dịu dàng, xanh và đẹp đến vậy. Hèn chi người ta gọi nó là “Thành phố ngọc bích” ( Emerald City ), hay “Mãi mãi xanh tươi” ( Evergreen State ).
PHẠM THƯỜNG KHANHĐầu năm nay khi biết tôi chuẩn bị đi công tác Trung Hoa, em gái tôi, một người thơ gọi điện từ Huế ra bảo: “Anh cố gắng mà cảm nhận vẻ đẹp rực rỡ của văn minh Trung Hoa. Hình như với bệ phóng vững chắc của nền văn minh hàng ngàn năm ấy, người Trung Hoa đang có những cuộc bứt phá ngoạn mục và trong tương lai dân tộc này còn tiến xa hơn nữa”. Là một quân nhân, tôi đâu có được trí tưởng tượng phong phú và trái tim dễ rung động như em tôi, nhưng 10 ngày trên đất nước Trung Hoa đã để lại trong tôi những ấn tượng thật sâu đậm.