XUÂN NGUYỄN
Ảnh: internet
Thơ như là hoa nở cùng ánh trời trên khắp hành tinh cho con người. Hoa đẹp, hoa xấu, hoa độc hại, hoa tốt, hoa trở thành thuốc bổ, thuốc trị bệnh; hoa được dùng trang trí lễ nghi hay tu dưỡng tình cảm con người; loài hoa kia được con người trân trọng hay loại bỏ... Con người cũng đã nhiều phen vất bỏ những gì ngoài thơ như những gì ngoài hoa.
Muốn rõ những gì ngoài thơ, trong tay mỗi người cần một "cái sàng"; ngữ ngôn dễ hiểu với cả những ai sống ở một đất nước nông nghiệp; từ thóc lúa để có hạt gạo thơm ngon cần những tay sàng cần mẫn và dẻo đã bỏ đi vỏ trấu và nhặt bỏ luôn những sỏi những sạn và cả những tạp chất khác; cái sàng của thơ không thể thô sơ mà cần tinh vi đặc biệt là còn "rất hồn" để lựa ra thơ cho con người và loại bỏ những gì ngoài thơ.
Trước hết hãy tìm "xuất xứ" nhà thơ.
Có nhiều người cho rằng, nước ta bảy mươi triệu dân dẫu đang nhiều phen đói ăn song đã có bảy mươi nhà thơ cho đương đại. Cách nói này có cơ đúng, bởi vì dân ta, trong máu ai mà chẳng có chút gen thơ từ ông bà cụ kỵ tổ tiên lưu truyền cho thơ đọng giọt, rồi ai đó cũng dễ dàng sống và luôn được tác động từ cảnh quan của núi sông đất nước, rồi lại được nghe ru bằng thơ ca từ trong nôi.., ra đường ngõ là gặp được nhiều điều con người nói ra co kéo người ta gần lại thơ.
Có ý kiến khác cho quá nửa số bốn trăm (400) hội viên Hội nhà văn Việt Nam hiện nay là người làm thơ đang tạo nên một con số "hạ cố" và lạm phát!
Tôi nghiêng về ý kiến thứ hai; vì có đâu nhiều hội viên xứng đáng đại diện cho danh hiệu này; điểm đầu họ có vài chục nhà thơ thôi; và đếm kỹ trên đầu ngón tay khéo chỉ còn dăm thi-sĩ cho đương đại. Phong thanh nghe đâu, đã có thời mấy người thơ còn sắp được phong tước công huân... thì hoảng sợ quá?! Gộp cả những dòng số vừa trình bày, tôi coi đó là những gì ngoài thơ.
Từ vài chục năm nay thơ chúng ta không phát triển ở thế tự nhiên; nhiều quy hoạch, hoạt động để gắn lên thơ những răng vàng, răng bạc, răng giả xương.., vì như nghĩ rằng - nếu không được chăm sóc như thế thì không có phong trào; như thế ngẫu nhiên có lúc thơ đã được coi bằng những hoạt động đoàn thể. Các ban vận động các hoạt động của nhiều Hội văn nghệ địa phương, nhiều nhà thơ được coi trọng, in được thơ, lập hồ sơ, viết báo cáo thơ hội viên, cộng tác viên.., ngốn không ít giấy; để làm gì nếu những tố chất đó không cho cuộc sống thơ? Thực tế hàng nhiều triệu trang in đã đi tong, đâu có giá ngang bằng những tài liệu tuyên truyền để nhân dân tiến hành những việc bổ ích cho đất nước. Có tác giả trong vòng hai mươi năm, in gần hai chục tập thơ bằng tiền "bao cấp" của dân; mà nay lại là họ, không nhớ nổi một vần!
Những nhà thơ có tư cách, trong số có hàng nghìn bài vẫn lặng lẽ làm việc, thực thi những "bếp núc", cắt tỉa những gì ngoài thơ, rồi mới công bố; ngược lại, những người làm thơ như thợ đợi - hứng - lộc thì xông phứa lên chiếm bãi, cày cục để cho ra mặt báo trong những dịp kỷ niệm, mỗi dịp Tết.., tiện dịp là họ hiện diện đủ trong các tờ, các "tuyển" từ địa phương đến quốc gia; hoặc qua một cái danh hoặc bằng "quyền lực" đối lưu giữa các nhà xuất bản và tòa soạn; họ trị vì kiểu êkíp, nhiều người ém cửa các gôn thơ hàng mười mấy, hai, ba chục năm; Những "gánh" văn vần lổn nhổn lại nhiều dịp qua phương thức "vừa đá bóng vừa thổi còi" để vào chung khảo các cuộc thi, lãnh giải!..
Những thơ chính luận của nhiều nhà thơ lớn ở những vị trí thoáng đã thay giá trị một nghìn lần những thơ phê bình, châm biếm vụn vặt; những thơ trữ tình lặng lẽ làm cho hòa bình cân bằng trong gen máu con người. Khái niệm chinh phục trái tim con người của thơ, lương tri con người thơ như đang cần được minh nhiệm, sàng lọc lại cho thơ nhiều giá trị đích thực để thơ tự do trở lại phục vụ con người. Thế giới thế kỷ này quá nhiều những bài ca để không chịu lùi trước đạn bom của bọn buôn súng và bọn buôn quyền lực. Dầu vậy, thế giới vẫn còn thiếu rất nhiều những bài thơ có thép để hợp thành binh đoàn chặn tay tội ác.
Giao lưu cảm xúc của thơ mỗi ngày đang mới ra trong mỗi sáng tạo thơ, thơ không chịu khuôn theo một phương thức biểu đạt nào; những "sơ đồ hóa" như không gò bắt thơ theo một tiêu chí, nếu có ai đó định áp đặt thơ phải đi theo hướng đó. Thơ càng đi vào ngõ ngách của thế giới vũ trụ con người đa chiều, càng tỏ có sức mạnh. Những sáng tạo thơ như vì thế, dù ở mỗi tiểu tiết "luôn đối lập" với những gì tốc tả, giản đơn, tầm thường... Những thông tấn thời sự mới nhất được nhà thơ có tài chuyển hóa ngay ra thơ; những đề tài có sức gợi muôn thuở bị nhà thơ non tay bôi lại xanh-đỏ- tím-vàng mờ nhạt lên những trang giấy. Và, mặc dù ngày nay đang quá nhiều phương tiện trợ giúp, chuyển tải tình cảm thơ cho con người, con người càng cần biết tới điều kiện nhân lên những cấp số-cảm-xúc để có thi tứ sắc sảo, hình tượng cao cho thơ. "Công nghiệp" thơ càng cao, có nghĩa tầng biểu đạt Cái-Tôi cá thể càng linh diệu, độc tôn hòa nhanh trong mối cảm của cộng đồng nơi mỗi sáng tạo thơ.
Hùng Sơn Cốc (người bắc Tống) nói: "Chương cú trong văn ngẫu nhiên mà thành như đường do sâu đục trong thân cây"; cái ngẫu nhiên mà người xưa đã đề cập tới đã dự đoán trúng qui luật của sáng tạo thơ. Tiếp xúc với nhiều nhà thơ, họ cho hay rằng không thể "hợp đồng" cho mỗi tác giả sáng tạo ra thơ. 99% các nhà thơ còn cho biết, không thể đặt tít đề trước cho mỗi sáng tạo thơ; bởi thông minh mấy cũng không dễ tạo ra cảm xúc nếu đặt đầu đề trước cho thơ. Chủ đề, đề tài nhiều khi là cái gì đó rất mong manh khó bề gợi ra, nắm bắt được như những ngành nghệ thuật khác. Vậy bao giờ nhà thơ cũng rơi vào thế bị động? Vâng đúng, nhà thơ có thể chủ động tích cực làm việc để có bài, có câu, có vần... nhưng đâu chắc trong những điều kiện hợp-đồng ấy nhà thơ có nổi thơ! Cũng suy nghĩ như vậy, hiện tượng thoảng đạt được ở thơ trong những trang "nhân dịp" vẫn dễ nghiêng về những gì giả tạo, lắp ghép, miễn cưỡng cho đầy các mặt báo; mà nhiều cây bút thường cố len lách để có chút nhuận bút hoặc danh hờ, nói rằng mình tồn tại quanh nàng-thơ.
Có nhà thơ - bạn tôi, đã có thời được cả hai năm ròng lênh đênh sống trên biển xa, đảo xa... để có thơ về biển, đảo, người lính, nhưng thực tế anh khá tinh khôn, không để phí thời gian để thực hiện những trang ký, ghi chép, và anh đã có được tới hàng nghìn trang về những "xâm nhập" ở biển, còn thơ thì như luôn chịu khoanh tay; anh chỉ nghiêm túc đưa ra trình làng không quá mười bài.
Một nhà thơ già cho hay, trong đời ông chỉ dám nhận hợp đồng để có ký, có kịch; song để có thơ ông cũng chưa bao giờ nhận bất cứ hợp đồng nào; Nhà xuất bản, cơ quan Hội hoặc tòa soạn nào hảo tâm thì đầu tư, ông không từ chối; tiền ấy nhà thơ hãy dùng cho các khoản khác của cuộc sống chứ tiền ấy chưa tạo ra nguồn cảm của thơ. Không những thế, quá trình săn đuổi những hình tượng thơ, nhà thơ luôn như người bị lừa; người đời biết yêu tật ấy ở nhà thơ già, thừa dịp lừa ông từ mũ phớt, ô, kính, áo... đến tủ chè! Nhưng rồi ông vẫn vào cầu, thắng đậm là có được những bài thơ đích thực, cảm xúc cao.
Nhà thơ áp tải Thanh Tùng (nhiều năm sống gắn trên những thùng xe hàng, áp tải hàng hóa, làm thơ trên những mảnh giấy xi măng, cây chì viết thơ lên cả những thùng hòm gỗ), tâm sự rất thật: "Có thể xuất khẩu thành những gì (một cách bản năng) tương tự thơ, rồi khi cố nhớ, chép lại thì những hình tượng hay chạy biến tăm tai”. Lạ hơn, nhiều đề tài người ta "đặt trúng" vào những điều đã có lần được anh ứng tác nhiều rồi như: cây đàn ghitar, như những ứng tác về rượu, đề tài đổi mới... Thanh Tùng đọc (nhiều phen) vẫn bị "gẫy".
Như vậy có thể thấy, mỗi nhà thơ đủ nghị lực bền bỉ phục chờ tứ thơ, bằng lối này hay lối khác lần ra bóng dáng bài thơ, làm những việc "bếp núc " khác của thơ... Nhưng không dễ tạo ra cảm xúc cho mỗi vấn đề, đề tài mình định biểu đạt. Đây là một đặc trưng nhưng thật vừa khó, vừa quí, vừa hiếm; thoắt xuất hiện, thoắt biến đi, nên nhiều khi nhà thơ đau khổ đến tột cùng vẫn không tìm thấy câu thơ buồn, ngược lại khi thật sự vui sướng cũng chưa chắc tạo ra được câu thơ của niềm vui hào khởi kia.
Lịch sử thơ không quên những nhà thơ của phong trào thơ công nhân, nhiều nhà thơ của phong trào thơ ấy (bản chất) như trời không sinh ra họ để làm thơ (?) Nhưng có một điều phần đông họ đã làm ra thơ theo kiểu "đặt hàng"; quan niệm thơ của họ có những điểm lệch, họ quen dùng những tiếng nói mạnh như những tiếng máy, số đông chưa chú trọng yếu tố giao-lưu-tình-cảm trong thơ; những vần thơ họ viết ra khô cứng. Sau thời kì ấu trĩ ấy (đã có) một số rất ít những nhà thơ thay đổi cách nói cho trang thơ dịu đi, nhưng đâu có thể làm như thế. Tôi nghĩ, họ cần được đổi thay từ gen máu thì họa chăng mới đến được thơ.
Có cái mũ trong những điều kiện cụ thể lại chính là cái đầu vì nó bảo vệ xương thịt, làm sáng danh cho những cái đầu mang đội nó. Những lúc khác cái mũ nơi đầu tóc người ta lại ở ngoài cái đầu đến kệch cỡm, trớ trêu, nhiều cái mũ từng đã làm khổ cho cái đầu; đầu đề cho mỗi bài thơ cũng vậy. Hình như với các nhà thơ nó đều sinh ra sau khi có bài thơ rồi. Chỉ những phóng viên, những người lo mi cho mỗi tập sách, những người lo lên khuôn tờ báo tường là quen cách kẻ phác và định đặt đầu đề trước cho mỗi "bài thơ". Ngược lại với các nhà thơ, nhiều khi viết xong bài thơ rồi vẫn thả mình cho những cảm xúc đã biểu đạt đươc, không lo việc tìm đề cho bài thơ; nhiều người trong nhiều trường hợp để mãi chữ tít không đề rồi "ám định" cho các biên tập viên và các bộ biên tập: thích đặt đầu đề bài thế nào cũng xong, miễn răng đã có thơ. Chuyện này đôi khi như thói quen, người ta đội mũ nón trong những điều kiện mưa nắng là cần, song lại có nhiều người đãng trí, lạm dụng tới mức không cho phép, đội mũ rộng vành, đội nón trong phòng họp, lớp học; mà bản thân anh ta đâu có làm nhiệm vụ của diễn viên sân khấu trong các buổi tập vở.
Và những-dải-áo nhiều khi cũng đã khoác lên thơ bay dài như những dải phướn cờ Phật, cũng nhiều phen làm lóa mắt người ta, không nhìn ra thơ nữa: điều ấy là tiếng gió trong đêm, là giấc mơ với nhiều chi tiết lạ, ly kì không có trong đời thực mỗi con người; điều đó đôi khi là tiếng đàn sáo nhiễu phá nhịp vần của thơ; điều đó đôi khi lại chính là cách đọc "không nghiêm", lên gân, gầm gào hoặc không chọn đúng vị trí để đọc thơ... Có cả những khi nhà thơ hăng say đến mức thái quá "đè" những người chung quanh ra để mà đọc lấy được, giữa lúc những người kia chưa chuẩn bị để được nghe thơ, nên ở đó có người khinh thường thơ mà rì rầm lánh sang chuyện khác, lại có người nhạt nhẽo đứng phắt dậy để khỏi phải nghe những thơ véo von như nhạc ấy...
Nay đang là thời đại con người được trang bị kênh-văn-hóa cao, thực tế số đông đã có những kiến thức, hiểu biết và cũng đồng cảm với thơ một cách không khó khăn, xa cách gì; nhưng đây phải đích thực là thơ, mà không bị ca-hò-vè nhàm chán lẫn vào. Do vậy, con người luôn luôn cùng nhà thơ sàng lọc và sáng tạo ra thơ; cái mới của những sáng tạo thơ sẽ thường xuyên tiếp cận được, ngay với công chúng; những gì ngoài thơ, mỗi nhà thơ hãy tự loại bỏ ra khỏi trang thơ mình trước, là cách làm tốt và hữu hiệu nhất.
Nhưng nói như trên, nói trúng, giải đáp đúng nhất; thơ vẫn muôn thuở cần khoảng cách để ngấm tỉnh lại - những nhà phê bình thơ sẽ giúp thơ tìm ra "chân lý" sâu đậm, tốt đẹp của hoa và của từng sáng tạo thơ.
X.N.
(TCSH53/01&2-1993)
NGUYỄN VĂN DÂNNgười ta cho rằng tiểu thuyết có mầm mống từ thời cổ đại, với cuốn tiểu thuyết Satyricon của nhà văn La Mã Petronius Arbiter (thế kỷ I sau CN), và cuốn tiểu thuyết Biến dạng hay Con lừa vàng cũng của một nhà văn La Mã tên là Apuleius (thế kỷ II sau CN).
HẢI TRUNGSông chảy vào lòng nên Huế rất sâuBản hùng ca của dãy Trường Sơn đã phổ những nốt dịu dàng vào lòng Huế, Hương Giang trở thành một báu vật muôn đời mà tạo hóa đã kịp ban phát cho con người vùng đất này. Chính dòng Hương đã cưu mang vóc dáng và hình hài xứ Huế. Con sông này là lý do để tồn tại một đô thị từ Thuận Hóa đến Phú Xuân và sau này là Kinh đô Huế, hình thành phát triển đã qua 700 năm lịch sử.
HÀ VĂN THỊNH Nhân dịp “Kỷ niệm 50 năm Đại học Huế (ĐHH) Xây dựng và Phát triển”, ĐHH xuất bản Tạp chí Khoa học, số đặc biệt – 36, 4.2007.
NGÔ ĐỨC TIẾNNăm 1959, nhân dịp vào thăm Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, đến gian trưng bày hiện vật và hình ảnh đồng chí Phan Đăng Lưu, đồng chí Lê Duẩn phát biểu: “Đồng chí Phan Đăng Lưu là một trí thức cách mạng tiêu biểu”.
NGUYỄN KHẮC MAITháng 3 –1907, một số sĩ phu có tư tưởng tiến bộ của Việt Nam đã khởi xướng thành lập Đông Kinh Nghĩa Thục tại Hà Nội với mục đích “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” hô hào xây dựng đời sống mới mà giải pháp then chốt là mở trường học, nâng dân trí, học hỏi những bài học hoàn toàn mới mẻ về dân chủ, dân quyền, dân sinh, dân trí, cả về sản xuất kinh doanh, xây dựng lối sống văn minh của cá nhân và cộng đồng.
HỒ THẾ HÀ Thật lâu, mới được đọc tập nghiên cứu - phê bình văn học hay và thú vị. Hay và thú vị vì nó làm thỏa mãn nhận thức của người đọc về những vấn đề văn chương, học thuật. Đó là tập Văn chương - Những cuộc truy tìm(1) của Đỗ Ngọc Yên.
ĐOÀN TRỌNG HUY
Huy Cận có một quãng đời quan trọng ở Huế. Đó là mười năm từ 1929 đến 1939. Thời gian này, cậu thiếu niên 10 tuổi hoàn thành cấp tiểu học, học lên ban thành chung, sau đó hết bậc tú tài vào 19 tuổi. Rồi chàng thanh niên ấy tiếp tục về học bậc đại học ở Hà Nội.
NGUYỄN KHẮC THẠCHTrước hết phải thừa nhận rằng, từ ngày có quỹ hỗ trợ sáng tạo tác phẩm, công trình Văn học Nghệ thuật cho các Hội địa phương thì các hoạt động nghề nghiệp ở đây có phần có sinh khí hơn. Nhiều tác phẩm, công trình cá nhân cũng như tập thể được công bố một phần nhờ sự kích hoạt từ quỹ này.
THẠCH QUỲTrước hết, tôi xin liệt kê đơn thuần về tuổi tác các nhà văn.
TÙNG ĐIỂNLTS: “Phấn đấu để có nhiều tác phẩm tốt hơn nữa” là chủ đề cuộc tập huấn và hội thảo của các Hội Văn học Nghệ thuật khu vực miền Trung và Tây Nguyên tại thành phố Nha Trang đầu tháng 7 vừa qua. Tuy nhiên, ngoài nội dung đó, các đại biểu còn thảo luận, đánh giá hiệu quả sử dụng quỹ hỗ trợ sáng tạo tác phẩm, công trình văn học nghệ thuật trong mấy năm gần đây.Nhiều ý kiến thẳng thắn, tâm huyết, nhiều tham luận sâu sắc chân thành đã được trình bày tại Hội nghị.Sông Hương xin trích đăng một phần nội dung trên trong giới hạn của chuyên mục này.
PHẠM PHÚ PHONGMột đặc điểm tương đối phổ biến của các tác giả sáng tác ở miền Nam trước đây là hầu hết các nhà văn đều là những nhà văn hoá, tác phẩm của họ không chỉ thể hiện sự am hiểu đến tường tận các lĩnh vực văn hoá, mà trong một đời văn lực lưỡng của mình, họ không chỉ sáng tác văn chương mà còn sưu tầm, dịch thuật, khảo cứu nhiều lĩnh vực văn hoá như lịch sử, địa lý, địa chí, ngôn ngữ, dân tộc học, văn học và văn hoá dân gian, như các tác giả từng toả bóng một thời là Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Chánh Sắt, Đông Hồ, Vương Hồng Sển, Nguyễn Văn Xuân, Sơn Nam... trong đó có Bình Nguyên Lộc.
PHAN KHÔILời dẫn Bài mà tôi giới thiệu dưới đây thuộc một giai đoạn làm báo của Phan Khôi còn ít người biết, − giai đoạn ông làm báo trên đất Thần Kinh, tức thành phố Huế ngày nay, những năm 1935-1937; khi ấy Huế đang là kinh đô của triều Nguyễn, của nước Đại Nam, nhưng chỉ là một trung tâm vào loại nhỏ xét về báo chí truyền thông trong toàn cõi Đông Dương thời ấy.
PHONG LÊÔng là người cùng thế hệ, hoặc là cùng hoạt động với Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Như Phong... Cùng với họ, ông có truyện trên Tiểu thuyết thứ Bảy và Trung Bắc chủ nhật trong những năm 1941-1945. Cùng hoạt động trong Hội Văn hóa cứu quốc đầu Cách mạng tháng Tám, và tham gia xây dựng văn nghệ kháng chiến, làm tờ Tạp chí Văn nghệ số 1 - tiền thân của tất cả các cơ quan ngôn luận của Hội Văn nghệ và Hội Nhà văn Việt Nam.
TRẦN VĂN SÁNGCó thể nói, học tập phong cách ngôn ngữ Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết, là học tập cách viết và cách lập luận chặt chẽ qua từng câu chữ, mỗi trang văn chính luận. Những văn bản: “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, “Tuyên truyền”, “Bản án chế độ thực dân Pháp”, “Tuyên ngôn Độc lập” luôn là những áng văn mẫu mực về phong cách ngôn ngữ ngắn gọn, chắc chắn, dễ hiểu, chính xác và giàu cảm xúc.
TRẦN THỊ MAI NHÂNNgười ta kể rằng, ở Ấn Độ, trong cái nhộn nhịp của cuộc sống, con người thường nghe văng vẳng tiếng gọi: “Hãy chở ta sang bờ bên kia”. Đó là tiếng gọi của con người khi “cảm thấy rằng mình còn chưa đến đích” (Tagore).
HOÀNG THỊ BÍCH HỒNGKhái niệm “Lạ hoá” (estrangemet) xuất hiện trong những năm 20 của thế kỷ XX gắn với trường phái hình thức Nga. Theo Shklovski thì nhận thức của con người luôn có xu hướng tự động hoá để giảm bớt năng lượng tư duy, “người ta thường dùng những từ quen thuộc đến sờn mòn”(1).
VÕ THỊ THU HƯỜNGTrời đất bao la mênh mông, ẩn chứa thật nhiều những bí mật mà con người chúng ta không ngừng khám phá mỗi ngày và cũng đã đạt được rất nhiều thành tựu mới mẻ và kỳ lạ.
TZVETAN TODOROV Lời dẫnNền văn chương đang lâm nguy (La littérature en péril)(1), đó là tựa đề cho cuốn sách mới nhất, vừa được xuất bản ở Pháp của nhà lý luận văn học nổi tiếng: Tzvetan Todorov - đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa cấu trúc, tác giả của nhiều công trình khoa học tầm cỡ.
LẠI NGUYÊN ÂN 1. Phạm trù chủ nghĩa cá nhân (individualisme) của tư tưởng phương Tây được Phan Khôi (1887-1959) đề cập từ cuối những năm 1920 đầu những năm 1930, khi mà một trong những đề tài thu hút ngòi bút viết báo của ông chính là vấn đề thời sự của đời sống văn hoá tư tưởng đương thời: trạng thái và số phận của những tư tưởng cổ truyền phương Đông trước một xu thế đang diễn ra trên chính phương Đông, được gọi là xu hướng “Âu hoá”.
HỒ THẾ HÀPhân tâm học ra đời đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc nhận thức những vấn đề thầm kín, vi diệu nhất của tâm sinh lý con người. Nó trở thành khoa học phân tích tâm lý chiều sâu của mọi hành vi trong đời sống ý thức và vô thức của mỗi cá thể người.