Trường ca “Ngụ ngôn của người đãng trí” đã đưa Ngô Kha - một nhà thơ tranh đấu trong phong trào hòa bình và dân tộc ở Huế - trở thành nhà thơ Việt đầu tiên kết hợp được thơ siêu thực và thơ yêu nước.
Nếu Paul Eluard và Louis Aragon đã giã từ thơ siêu thực để đến với thơ yêu nước, thì ngược lại, Ngô Kha hòa trộn thơ yêu nước và thơ siêu thực, thơ về chiến tranh và thơ khao khát hòa bình, thơ siêu thực phương Tây và thơ đậm sắc màu dân tộc Việt. Đó là nhà thơ rất hiếm hoi trong tiến trình thơ Việt hiện đại, vừa tranh đấu với những mục tiêu cụ thể, vừa xuống đường đương đầu can trường với bạo lực đàn áp, vừa làm thơ lãng đãng như một người đãng trí - một người đãng trí hiền hậu thương con người, yêu cuộc sống và thiết tha với những hình ảnh bất chợt, những giấc mơ không bình yên và những thông điệp không phải lúc nào cũng sáng rõ. Đọc tiểu sử vắn tắt của Ngô Kha, rồi đọc từng đoạn trong “Ngụ ngôn người đãng trí” của anh, chúng ta sẽ có được những mảnh ghép phối kỳ lạ giữa hình ảnh một nhà trí thức tranh đấu và hình ảnh một nhà thơ siêu thực đúng nghĩa.
“Nhà thơ Ngô Kha, sinh năm 1935 tại làng Thế Lại, TP. Huế. Tốt nghiệp thủ khoa khóa 1, Đại học Sư phạm Huế (1958-1959), cử nhân Luật (1962). Dạy văn ở các trường Quốc Học, Hàm Nghi, Nguyễn Du, Trần Hưng Đạo (Huế) từ năm 1960-1973. Tham gia "chiến đoàn Nguyễn Đại Thức", chiến đoàn quân đội chế độ cũ ly khai chống Mỹ - Thiệu - Kỳ (1966). Chủ trương nhóm Trí thức đấu tranh Tự quyết, 1970 và làm Chủ tịch Mặt trận Văn hóa Dân tộc miền Trung (1972). Bị chính quyền chế độ cũ bắt 3 lần, vào các năm 1966, 1971, 1972 và bị thủ tiêu sau hiệp định Paris (1973). Được nhà nước truy phong liệt sĩ sau năm 1975”.
Và đây, một đoạn thơ trong trường ca “Ngụ ngôn của người đãng trí”:
“… trong khu vườn tiền sử
dòng sông đen bắc cầu qua núi
với con voi ngà thời thượng cổ
hai chiếc sừng tráng lệ
mạch đất quê hương giờ lạnh rồi
sao mắt mẹ còn mở
sách trên án thư cũng ngủ khuây
nhưng hồn mẹ vẫn thao thức
con đã đi bao năm
mẹ không rời ngưỡng cửa
và nay
gió cũng tang bồng
nhưng thi sĩ vẫn nằm yên trong nhà tù vĩnh cửu”.
Đây có lẽ là đoạn thơ sáng rõ nhất trong bản trường ca hơn 700 câu thơ này, bản trường ca Ngô Kha viết chính trong thời điểm khốc liệt nhất của cuộc đời anh, khi anh dấn thân tranh đấu và bị tù đày, khi anh vừa dạy học vừa tham gia các tổ chức đối lập với chính quyền Sài Gòn, vừa chống cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ vừa nêu cao những bài giảng về lòng yêu nước cho học sinh của mình. Nhiều bạn hữu, nhiều đàn em, nhiều học sinh của Ngô Kha đã không bao giờ quên được dáng vẻ hiền hậu và tinh thần trí thức của anh, sự độc lập trong suy nghĩ và sự quyết liệt trong hành động yêu nước của anh. Vậy mà nhà thơ ấy, khi làm thơ, lại làm thơ… siêu thực. Như dòng sông Hương chảy qua trước nhà Ngô Kha ở 42 Bạch Đằng – TP. Huế, vừa phẳng lặng hiền hòa vừa chất chứa những sóng ngầm những linh hồn, những cổ vật, những câu chuyện cổ tích từ bao đời.
Trong sáng tạo thơ ca và trong số phận Ngô Kha có gì cứ khiến tôi nhớ đến Federico Garcia Lorca - nhà thơ siêu thực và yêu nước vĩ đại của Tây Ban Nha. Lorca cũng làm thơ siêu thực, và cũng đấu tranh chống chế độ độc tài của phát xít Franco, và cuối cùng, cũng bị bọn phát xít thủ tiêu vào năm 1936, đúng như cái cách Ngô Kha đã bị thủ tiêu sau đó 37 năm, vào năm 1973. Hài cốt Lorca và Ngô Kha đều vĩnh viễn không được tìm thấy, vĩnh viễn hòa trong Đất Mẹ. Lorca (1898-1936) và Ngô Kha (1935-1973) đều bị thủ tiêu ở tuổi 38. Cả Lorca và Ngô Kha đều có những bài thơ như nhìn thấy trước cái chết của chính mình.
“người say rượu lẩm nhẩm một mình
mùa hè có tuyết đen tuyệt đẹp
tôi vụt chạy bỏ linh hồn ở đó
không có đứa con gái, đứa con trai, người say rượu
chỉ có quả gấc hồng hào rực ánh lửa chiến tranh
người con gái đứng nhìn cánh sao lạc loài
trên nét mặt hiền hòa bất động của em
tôi thấy nốt ruồi son chói lọi
tiếng chim sành hót trong tiềm thức người say rượu
vỏ cây nứt một loài hoa vô sắc
tôi lạc vào miền vô vi
bài diễn văn cuốn theo lớp lá khô
người say rượu uống nhựa thông nằm chết tình cờ
đêm sửa soạn bài ngụ ngôn của người đãng trí
lá từ giã cành cây làm lễ đọc kinh
người con gái lặng yên xem chúc thư
bó hoa tôi mang đến dòng sông bây giờ đã héo”.
Ngô Kha đã nhìn thấy trước cái chết của mình như vậy đó. Nhưng anh không lùi bước, không trốn chạy. Anh bình thản đón nhận cái chết từ những kẻ giết người hèn nhát và giấu mặt. Đúng như cách Lorca đón nhận cái chết của mình từ lũ sát nhân phát xít.
Vì sao lại là thơ siêu thực ?
Có lẽ vì thơ siêu thực “đột nhập” được vào những khoảng bất chợt trong tâm hồn sâu thẳm con người, với những hình ảnh mờ chồng tự động và nhiều khi sẫm tối, nó phát hiện cho ta thấy sự phong phú nhiều khi đáng kinh ngạc của đời sống nội tâm một con người, ở đây là một thi sĩ. Thơ siêu thực không dễ làm, và dĩ nhiên, khó hay, nhưng khi đã thành công, thì nó vụt sáng. Đó cũng là phần không thể thiếu được trong thơ ca hiện đại. Khi chọn hình thức thơ siêu thực, một trí thức tranh đấu can trường như Ngô Kha đã chọn cho mình một phương thức biểu đạt không trực tiếp. Thơ Ngô Kha không làm khẩu hiệu xuống đường như thơ Trần Quang Long, nhưng nó cần thiết biết bao cho tâm hồn con người đương đại. Ngay trong cuộc chiến đấu, con người vẫn là một sinh thể vô cùng phức hợp, và thơ siêu thực cũng là một trong những nhu cầu tinh thần của con người.
Trong cuộc kháng chiến vì Độc lập - Tự do của dân tộc ta, đã xuất hiện nhiều dạng thơ yêu nước, và mỗi dạng thơ đều có đóng góp riêng của mình vào cuộc tranh đấu ấy. Vui mừng biết bao, khi trong dòng thơ lớn ấy, có thơ siêu thực của nhà thơ - liệt sĩ Ngô Kha. Anh chính là một F.G.Lorca của Việt Nam, với cây đàn lya và bài ca lãng đãng trên con đường đơn độc về một miền xa thẳm nào.
Tôi yêu Lorca. Tôi yêu Ngô Kha. Những nhà thơ quí hiếm như luôn sống mãi trong tâm hồn dân tộc mình, trong hành trình về tương lai của đất nước mình. Những kẻ sát nhân luôn bị quên lãng, bị lịch sử bỏ qua. Còn những nhà thơ - liệt sĩ thì luôn được tưởng nhớ bởi nhiều thế hệ.
Theo Thanh Thảo - TTH
Có cảm giác như quá bức xúc trước những mối đe dọa ô nhiễm, hủy hoại môi trường sống đang ngày càng hiện hữu mà Đãng Khấu viết tiểu thuyết này. Ở một khía cạnh nào đó, tác phẩm giống như một tiếng chuông cảnh báo vang lên đúng lúc, thức tỉnh tinh thần cảnh giác của mọi người, kể cả những kẻ đang mê muội chạy theo đồng tiền, sẵn sàng bất chấp tất cả.
2 đầu sách Thú lang thang người Hà Nội và Thú ăn chơi người Hà Nội (2 tập) của nhà văn Băng Sơn vừa được Huy Hoàng Bookstore tái bản và ra mắt độc giả. Nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Tiến cho rằng, đọc lại những cuốn sách này có thể nhận thấy tình yêu rất lớn Băng Sơn dành cho Hà Nội.
Trong giới nghiên cứu, cái tên Nguyễn Thị Hậu rất quen thuộc, mọi người còn đặt cho chị cái tên thân thiết là “Hậu khảo cổ”.
Tiểu thuyết “L’Étranger” nổi tiếng của nhà văn, triết gia người Pháp Albert Camus đã được độc giả Việt Nam biết tới qua bản dịch “Người xa lạ” từ những năm 60 của thế kỷ trước.
Cuốn sách “Cô gái đến từ hôm qua” của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh vừa được NXB Trẻ ra mắt phiên bản đặc biệt nhân dịp chuẩn bị công chiếu bộ phim cùng tên do đạo diễn Phan Gia Nhật Linh chuyển thể kịch bản và dàn dựng.
Sau 12 năm từ lần xuất bản đầu tiên, tiểu thuyết lịch sử “Trần Quốc Toản” của nhà văn Lưu Sơn Minh “tái xuất” với diện mạo mới cả về nội dung lẫn hình thức. Ngày 15/6/2017, nhân dịp “Trần Quốc Toản” phiên bản mới (họa sĩ Thành Phong minh họa, Công ti Cổ phần Văn hóa Đông A và Nxb Văn học liên kết ấn hành) ra mắt bạn đọc, buổi giao lưu với nhà văn Lưu Sơn Minh đã diễn ra tại Nhà sách Cá Chép - 115 Nguyễn Thái Học, Ba Đình, Hà Nội.
Đó là tác phẩm mới ra mắt của nhà thơ Nguyễn Duy. Tác phẩm là tập hợp các bài viết vốn đã đăng rải rác trên các báo nhiều năm nay.
Nguyễn Quang Thiều tâm sự rằng, suốt cả tuổi thơ của những đứa trẻ thôn quê như ông, có một ngọn gió không bao giờ ngưng thổi, đó là ngọn gió của… đói rét.
Nhiều trang viết của tác giả mô tả chuyện quan hệ trai gái với từ ngữ bị nhận xét phản cảm.
Tiếp sau tập truyện “Đỉnh khói” quy tụ các truyện ngắn về chiến tranh và đời thường, Nguyễn Thị Kim Hòa tiếp tục diện kiến bạn đọc bằng tập truyện “Con chim phụng cuối cùng”. Tập sách gồm 9 truyện ngắn đều tập trung vào đề tài lịch sử với những nhân vật nữ ám ảnh.
Các nhà văn Sài Gòn trước đây đều viết feuilleton (tiểu thuyết đăng báo nhiều kỳ). Đầu tiên là có thu nhập hằng tháng để lo cho nồi cơm. Thứ nữa là để độc giả biết tên tuổi, biết tiểu thuyết của mình. Thứ ba là việc viết feuilleton thúc đẩy nhà văn sáng tác liên tục, đồng thời nắm được thị hiếu, yêu cầu của người đọc đương thời.
Tác phẩm "Ta có bi quan không?" của Khải Đơn kể những trải nghiệm khó khăn trên hành trình trưởng thành của người trẻ.
Cục trưởng Cục Xuất bản, In và Phát hành (Bộ Thông tin và Truyền thông) Chu Văn Hòa cho biết Cục đang lập hồ sơ để ra quyết định thu hồi cuốn sách “Miếng ngon Hà Nội” do Nhà xuất bản Dân trí liên kết với Công ty Trách nhiệm hữu hạn Văn hóa Minh Tân – Nhà sách Minh Thắng phát hành do cuốn sách có sai phạm nghiêm trọng về nội dung.
Giọt sầu đa mang là cuốn tiểu thuyết thứ 9 của nhà văn Nguyễn Đình Tú. Điểm đặc biệt ở nhà văn này khiến cho anh bật lên so với các nhà văn cùng thế hệ là sức viết khỏe, viết đa dạng nhiều chủ đề...
Ở tuổi 85, nhà văn “lão làng” Nguyễn Xuân Khánh tuyên bố dừng viết, bằng một “dấu chấm” được cho là tác phẩm xuất sắc nhất trong đời văn nghiệp của ông: “Chuyện ngõ nghèo”. Nhưng một mặt, ông lại tiếc, kể chi quỹ thời gian của mình còn nhiều, để có thể... học thêm hai ngoại ngữ nữa.
Những cuốn tự truyện viết về tuổi thơ thời chiến tranh, thời bao cấp xuất hiện trên văn đàn không chỉ là những câu chuyện của ký ức tác giả mà còn như những cánh cửa mở ra để độc giả khám phá, tiếp cận với lịch sử ở nhiều góc cạnh khác nhau.
“Kim Thiếp vũ môn” là một quyển sách mà cấu trúc, văn phong và bút pháp không theo tiền lệ, nhưng mỗi câu chữ, mỗi chương, mỗi hồi không chỉ là lịch sử, là khoa học, là tiểu thuyết mà còn là tình yêu, là thân phận, là văn chương, thế sự, cuộc đời...
Nhân kỷ niệm 42 năm ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2017), NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật vừa cho ra mắt ấn bản tiếng Anh cuốn tiểu thuyết “Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75” của nhà báo - nhà văn Trần Mai Hạnh. Theo nhà thơ Hữu Thỉnh - Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, sự thật trong cuốn sách là thứ kim cương của văn học tư liệu.
Sẽ thật vô duyên nếu viết dài dòng về một cuốn sách kiệm chữ từ tiêu đề trở đi, như trường hợp "Thấy" của Lê Thiết Cương. Nhưng một khi đã “thấy” ở sách nhiều điều cần thấy mà không cất lời thì e rằng kìm nín là một lựa chọn hời hợt.
Tính đến năm 2016, nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Hà đã sở hữu sáu tập thơ (Gửi con lời ru, Đi ngang chiều gió, Cỏ mặt trời, Người gánh vô hình, Đứt dải yếm, Ngả vào nguyên khôi), một tập tản văn (Lạc trong đêm liêu trai), ba tập truyện ngắn (Đầm ma, Ám ảnh, Con sóng màu hổ phách), một tiểu thuyết (Mưa trong nắng). Đó là những con số biết nói. Đôi lúc tôi cứ vân vi mà nghĩ rằng, người phụ nữ mảnh mai, dịu dàng này lấy đâu ra sức lực để viết được cả ngàn trang sách như thế, nếu không là đam mê chữ nghĩa, văn chương. Hẳn là cái nghiệp!