Nghiệp thơ (Bài 2)

10:13 26/01/2010
LÊ ĐẠT     Cầm tên em đi tìm

Nhà thơ Lê Đạt - Ảnh: vietnamnet.vn


Hiển nhiên gánh thơ thế kỷ XXI chủ yếu đè nặng trên vai thế hệ trẻ.

Đó là một vinh dự, quan trọng hơn, đó là một trách nhiệm.

Tuổi trẻ, do cấu tạo sinh học thường có ưu điểm năng nổ táo bạo và nhất là có những suy nghĩ cảm xúc mới mẻ trước cuộc sống.

Tôi xin phép nhấn mạnh: những ưu điểm trời viện trợ ấy không đủ để các nhà thơ trẻ đảm nhiệm trọng trách chữ.

Kinh nghiệm cho ta biết rằng hoàn toàn sống bám vào viện trợ, dầu là viện trợ "vô tư" nhất, nhiều khi còn khổ quá ăn mày.

Hình như hiểu rằng "của trời đất kho vô tận" thật đấy, nhưng trời cũng chẳng hào phóng như người ta tưởng và tem phiếu trời cấp nhiều khi cũng chẳng rôm rả gì nên cố nhân đã gợi ý "Hãy tự viện trợ rồi trời sẽ viện trợ" hay nói kiểu các phương tiện thông tin đại chúng hiện tại "nên chú ý phát huy nội lực".

Một nghịch lý cũng cần nêu bật là không ít nhà thơ trẻ thường bắt đầu rất già vì họ quen nói bằng ngôn ngữ quá khứ mà cứ đinh ninh là của mình. Ngôn ngữ là một thói quen đáng sợ và rất ngoan cố. Thế hệ trẻ không dễ dàng tìm được ngay tiếng nói của mình. Cuộc tìm kiếm này là một quá trình hết sức gian khổ. Không thiếu gì người đã bạc đầu mà vẫn ăn nhờ tiếng nói của bố mẹ. Chỉ khi nào nhà thơ tìm được tiếng nói riêng, anh ta mới được coi là "người lớn".

Tương tự như con cái phương trưởng được cha mẹ cho tách hộ khẩu ra ở riêng.

Đã có một thời ở Phương Tây người ta nói quá nhiều đến cuộc chiến giữa các thế hệ.

Theo tôi đó là một cách nói xốc nổi và giật gân có nhiều tính chất "diễn" hơn là suy nghĩ chín chắn của một thế kỷ chưa rũ bỏ được ám ảnh chiến tranh.

Các thế hệ chẳng việc gì phải gầm ghè nhau cả. Trời đất còn nhiều vùng hoang hóa lắm. Nhưng nói thế không phải để đi đến kết luận hòa cả làng.

Mọi sự tiếp nối trong nền văn minh nhân loại đều vừa liên tục vừa gián đoạn.

Việc đầu tiên cầu làm khi đứa trẻ ra đời là phải cắt rốn tách khỏi mẹ.

Đó là hành động gián đoạn chảy máu đầu tiên trong cuộc đời một sinh vật.

Một nền thơ chưa cắt rốn chưa thể coi là một nền thơ đã khai sinh.

Tại sao khi một đứa nhỏ cắt rốn tách khỏi mẹ không ai kêu ca mà khi một nền thơ trẻ muốn cắt rốn khỏi nền thơ lớp trước người ta lại la lối nhiều thế!

Các thế hệ đi trước hãy giúp đỡ thế hệ trẻ tách khỏi quyền giám hộ của mình tạo điều kiện cho họ sớm trưởng thành và ra ở riêng.

Đó là cách tiếp nối, cách liên tục tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc tốt nhất.

Uống nước nhớ nguồn là một truyền thống hay
Con hơn cha nhà có phúc cũng hay không kém.

Một số nhà thơ trẻ trong hội nghị than phiền không được các nhà văn đàn anh nâng đỡ.

Tôi xin phép được lặp lại mình một lần nữa: tôi rất không thích từ nâng đỡ. Cái vi sắc ô dù của nó dễ gây hiểu lầm không những đối với thế hệ thơ trẻ mà còn cả với các "bậc" đàn anh.

Một nhà thơ cổ thụ thời danh trong một phút bốc hứng đã buột miệng phát một câu xanh rờn trên bục giảng một lớp bồi dưỡng cây bút trẻ.

"Các anh đều ở trong túi chúng tôi mà ra".

Cũng may là túi nhà thơ ấy thủng.

Các nhà thơ trẻ phải ý thức và trách nhiệm hơn về vai trò "khai phá", "lập nghiệp" của mình.

Vùng sâu, vùng xa của chữ còn vạn thủy thiên sơn nghìn lần vùng sâu vùng xa địa lý.

Hành trình mới hoang vu, mới cô tịch làm sao! Không hiếm đoạn rừng nguyên sơ um tùm cỏ dại, phải phát quang mà đi.

Lỗ Tấn nói "Đường do người đi mà có".

Nhưng nhà thơ trẻ, nhà thơ khai phá nhiều khi lại là người phải đi những bước đầu tiên "lồng vết trăng soi dấu chân hổ dữ".

Chống với thói quen chữ của chung quanh đã khó. Chống với thói quen bản thân còn bội lần khó hơn. Chẳng có người tình, người bạn nào "khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu" cả, ngay chính mình nhiều khi cũng lạnh nhạt, cũng hắt hủi mình.

Mọi con đường khai phá, lập nghiệp đều "Thục đạo nan"... Y hu hi! Nguy hồ cao tai... Đường vào Thục khó hơn đường lên trời.

Mà chúng ta chỉ có cái ba lô hoài bão toòng teng trên lưng chống lại những dông bão cấp mười ba mười bảy của cuộc đời.

Thượng Đế hãy phù hộ cho các nhà thơ trẻ chân cứng đá mềm trên con đường vạn lý trường chinh chữ.

Người ta kêu ca các nhà thơ trẻ hay bia bọt đọc thơ và ca ngợi lẫn nhau tại trận một cách xa xỉ không được nếp sống mới lắm.

Không nên quá nghiêm khắc với họ.

Thỉnh thoảng bia bọt, cho nhau đi tàu bay giấy tí chút để nạp thêm "gaz" hào hứng cũng chẳng sao, miễn là không nên kéo dài triền miên.

Đừng bao giờ quên rằng cái quan trọng nhất đối với người làm thơ không phải những phút liên hoan vui vẻ "văn mình vợ người" hay nhận hoa trên sân diễn mà là những phút, những giờ thầm lặng, chán nản, vô danh vất vả trên xới chữ.

Người ta thường ca ngợi những "hat-trick", những miếng chữ "cao thủ" của các vận động viên mà ít ca ngợi khả năng "trì đòn" của họ. Theo tôi khả năng "chịu đòn" nhiều khi còn quan trọng hơn khả năng "ra đòn", nó chính là lòng gan dạ, khí phách của kẻ sĩ, cả văn lẫn võ.

Tôi muốn kể các bạn nghe trường hợp nhà thơ Mỹ đồ sộ Walt Whitman.

Tập "Lá cỏ" của Walt được xuất bản năm 1855 với số lượng sáu chục bản. Đã đến cái nước bóp mồm bóp miệng bỏ tiền túi ra xuất bản thơ để biếu xén tưởng cũng đã là hẩm hiu mạt hạng rồi!

Mà nào có xong cho đâu!

Tập "Lá cỏ" đầu tiên gửi tặng một nhà phê bình đàn anh lập tức được gửi trả lại với một dòng chữ phúc đáp giết người: "Đây không phải thơ, đây là sự vô lễ".

Nhà thơ thời danh khả kính Whittier, một những sáng lập viên của Đảng Cộng hòa Mỹ đã quẳng cuốn "Lá cỏ" vào lửa như hỏa thiêu một sản phẩm của ma quỷ. Không những thế nhà thơ thanh giáo kia còn kể lại hành động thánh thiện của mình trong tất cả các buổi sinh hoạt của giới thượng lưu như một chiến tích văn hóa.

Khi Walt lân la đến hiệu sách thu thập thông tin về sáng tác của mình (nhà thơ đã khôn ngoan nhờ một người bạn đảm đương giúp phần tiếp thị) chủ hiệu sách trễ kính nhìn ông như một quái thai ngâm dấm và phải lục mãi trong ngăn sách bụi bặm mới lôi được ra một tập.

Walt hỏi:

- Làm sao tập thơ mới xuất bản mà ông không bầy bán.

Chủ hiệu nhún vai:

- Tôi khổ sở vì tập "Lá cải" này. Một khách hàng quen trông thấy cuốn sách trên sạp đã đùng đùng bỏ đi, sau khi quẳng lại một câu: "Tôi tưởng ông là người đứng đắn ai ngờ ông lại buôn những thứ sách nhảm độc hại này".

Walt phải cắn răng rốc túi ra mua cả ba tập "Lá cỏ" để bác lại ý kiến chỉ trích.

- Đây là một tập thơ rất độc đáo. Tôi muốn mua thêm mấy cuốn tặng bạn bè.

Ông chủ hiệu sách chẳng biết thật thà hay tinh quái.

- Người ta chỉ gửi tôi bán có ba cuốn... nếu ngài muốn mua thêm xin đến hiệu sách cách đây ba nhà. Chắc là còn... Có ma nào hỏi đâu...

Walt đi rồi vẫn còn nghe rành rọt bên tai:

- Đúng là một thằng hâm.

Điều kỳ quặc là Walt không nhảy xuống sông Potomac tự tử, không đi uống rượu giải khuây hay chôn mối sầu nhân thế vào bụng một nàng thơ "mỳ ăn liền". Không những thế ông còn đem tập thơ đã in ra lọ mọ sửa lại, viết bổ sung và tái bản lần thứ hai.

Hồi đó nhà thơ của chúng ta còn là một nhân viên văn phòng quèn tại một cơ quan nhà nước. Một hôm ông trưởng phòng bất chợt thấy trên bàn làm việc của thuộc cấp (tên khai sinh của nhà thơ là Walter) có cuốn "Lá cỏ" bèn hỏi:

- Ông cũng đọc cuốn này?

Tuy là người thông minh, nhưng Walt vẫn mắc bệnh ngây thơ cố hữu của các nhà thơ. Ông không nhận thấy sắc thái hơi khác trong giọng nói của thủ trưởng.

Walt cười rất "colgate":

- Thưa ngài đây là một tập thơ khá độc đáo - Nếu ngài muốn tôi sẽ biếu ngài một tập.

- Ông biết tác giả.

- Thưa ngài tôi rất biết, vì tác giả chính là tôi.

Khi Walt nhận thấy mặt thủ trưởng thay đổi thời tiết thì đã quá muộn.

- Cơ quan nhà nước là một nơi nghiêm túc không... không có chỗ...

Ông trưởng phòng phẫn nộ đến mức phải nới ca-vát để thở. Và do bệnh quan liêu hách dịch là một bệnh mãn tính của hầu hết các cơ quan hành chính, nhà thơ của chúng ta bị buộc phải thôi việc "vì vi phạm quy chế công chức:nghiêm trọng".

Không chừa. Nhà thơ lại tiếp tục sửa, tiếp tục bổ sung và tái bản lần thứ ba.

Vào năm 1870, sau khi tái bản lần thứ tư nghĩa là sau lần xuất bản đầu tiên 15 năm, nhà thơ đã được kiện. Walt trở thành nổi tiếng, quá nổi tiếng đến mức không biết nhét vào túi nào cho hết. Cả thế giới chào mừng nhà thơ "vô lễ", "mánh qué" như một tài năng khổng lồ tiêu biểu cho tiếng nói của một quốc gia ngoại cỡ mới thành hình mà người ta gọi là nước Huê Kỳ. Hình như diện tích mênh mông của Hiệp chủng quốc còn hơi nhỏ so với tầm cỡ của nhà thơ, người ta mệnh danh ông là Crixtốp Côlông của thời đại mới.

Xin các bạn tự túc phần kết luận.

Cuối năm 98
L.Đ
(120/02-99)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN VĂN DÂNNgười ta cho rằng tiểu thuyết có mầm mống từ thời cổ đại, với cuốn tiểu thuyết Satyricon của nhà văn La Mã Petronius Arbiter (thế kỷ I sau CN), và cuốn tiểu thuyết Biến dạng hay Con lừa vàng cũng của một nhà văn La Mã tên là Apuleius (thế kỷ II sau CN).

  • HẢI TRUNGSông chảy vào lòng nên Huế rất sâuBản hùng ca của dãy Trường Sơn đã phổ những nốt dịu dàng vào lòng Huế, Hương Giang trở thành một báu vật muôn đời mà tạo hóa đã kịp ban phát cho con người vùng đất này. Chính dòng Hương đã cưu mang vóc dáng và hình hài xứ Huế. Con sông này là lý do để tồn tại một đô thị từ Thuận Hóa đến Phú Xuân và sau này là Kinh đô Huế, hình thành phát triển đã qua 700 năm lịch sử.

  • HÀ VĂN THỊNH Nhân dịp “Kỷ niệm 50 năm Đại học Huế (ĐHH) Xây dựng và Phát triển”, ĐHH xuất bản Tạp chí Khoa học, số đặc biệt – 36, 4.2007.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNNăm 1959, nhân dịp vào thăm Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, đến gian trưng bày hiện vật và hình ảnh đồng chí Phan Đăng Lưu, đồng chí Lê Duẩn phát biểu: “Đồng chí Phan Đăng Lưu là một trí thức cách mạng tiêu biểu”.

  • NGUYỄN KHẮC MAITháng 3 –1907, một số sĩ phu có tư tưởng tiến bộ của Việt Nam đã khởi xướng thành lập Đông Kinh Nghĩa Thục tại Hà Nội với mục đích “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” hô hào xây dựng đời sống mới mà giải pháp then chốt là mở trường học, nâng dân trí, học hỏi những bài học hoàn toàn mới mẻ về dân chủ, dân quyền, dân sinh, dân trí, cả về sản xuất kinh doanh, xây dựng lối sống văn minh của cá nhân và cộng đồng.

  • HỒ THẾ HÀ Thật lâu, mới được đọc tập nghiên cứu - phê bình văn học hay và thú vị. Hay và thú vị vì nó làm thỏa mãn nhận thức của người đọc về những vấn đề văn chương, học thuật. Đó là tập Văn chương - Những cuộc truy tìm(1) của Đỗ Ngọc Yên.

  • ĐOÀN TRỌNG HUY

    Huy Cận có một quãng đời quan trọng ở Huế. Đó là mười năm từ 1929 đến 1939. Thời gian này, cậu thiếu niên 10 tuổi hoàn thành cấp tiểu học, học lên ban thành chung, sau đó hết bậc tú tài vào 19 tuổi. Rồi chàng thanh niên ấy tiếp tục về học bậc đại học ở Hà Nội.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHTrước hết phải thừa nhận rằng, từ ngày có quỹ hỗ trợ sáng tạo tác phẩm, công trình Văn học Nghệ thuật cho các Hội địa phương thì các hoạt động nghề nghiệp ở đây có phần có sinh khí hơn. Nhiều tác phẩm, công trình cá nhân cũng như tập thể được công bố một phần nhờ sự kích hoạt từ quỹ này.

  • THẠCH QUỲTrước hết, tôi xin liệt kê đơn thuần về tuổi tác các nhà văn.

  • TÙNG ĐIỂNLTS:  “Phấn đấu để có nhiều tác phẩm tốt hơn nữa” là chủ đề cuộc tập huấn và hội thảo của các Hội Văn học Nghệ thuật khu vực miền Trung và Tây Nguyên tại thành phố Nha Trang đầu tháng 7 vừa qua. Tuy nhiên, ngoài nội dung đó, các đại biểu còn thảo luận, đánh giá hiệu quả sử dụng quỹ hỗ trợ sáng tạo tác phẩm, công trình văn học nghệ thuật trong mấy năm gần đây.Nhiều ý kiến thẳng thắn, tâm huyết, nhiều tham luận sâu sắc chân thành đã được trình bày tại Hội nghị.Sông Hương xin trích đăng một phần nội dung trên trong giới hạn của chuyên mục này.

  • PHẠM PHÚ PHONGMột đặc điểm tương đối phổ biến của các tác giả sáng tác ở miền Nam trước đây là hầu hết các nhà văn đều là những nhà văn hoá, tác phẩm của họ không chỉ thể hiện sự am hiểu đến tường tận các lĩnh vực văn hoá, mà trong một đời văn lực lưỡng của mình, họ không chỉ sáng tác văn chương mà còn sưu tầm, dịch thuật, khảo cứu nhiều lĩnh vực văn hoá như lịch sử, địa lý, địa chí, ngôn ngữ, dân tộc học, văn học và văn hoá dân gian, như các tác giả từng toả bóng một thời là Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Chánh Sắt, Đông Hồ, Vương Hồng Sển, Nguyễn Văn Xuân, Sơn Nam... trong đó có Bình Nguyên Lộc.

  • PHAN KHÔILời dẫn Bài mà tôi giới thiệu dưới đây thuộc một giai đoạn làm báo của Phan Khôi còn ít người biết, − giai đoạn ông làm báo trên đất Thần Kinh, tức thành phố Huế ngày nay, những năm 1935-1937; khi ấy Huế đang là kinh đô của triều Nguyễn, của nước Đại Nam, nhưng chỉ là một trung tâm vào loại nhỏ xét về báo chí truyền thông trong toàn cõi Đông Dương thời ấy.

  • PHONG LÊÔng là người cùng thế hệ, hoặc là cùng hoạt động với Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Như Phong... Cùng với họ, ông có truyện trên Tiểu thuyết thứ Bảy và Trung Bắc chủ nhật trong những năm 1941-1945. Cùng hoạt động trong Hội Văn hóa cứu quốc đầu Cách mạng tháng Tám, và tham gia xây dựng văn nghệ kháng chiến, làm tờ Tạp chí Văn nghệ số 1 - tiền thân của tất cả các cơ quan ngôn luận của Hội Văn nghệ và Hội Nhà văn Việt Nam.

  • TRẦN VĂN SÁNGCó thể nói, học tập phong cách ngôn ngữ Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết, là học tập cách viết và cách lập luận chặt chẽ qua từng câu chữ, mỗi trang văn chính luận. Những văn bản: “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, “Tuyên truyền”, “Bản án chế độ thực dân Pháp”, “Tuyên ngôn Độc lập” luôn là những áng văn mẫu mực về phong cách ngôn ngữ ngắn gọn, chắc chắn, dễ hiểu, chính xác và giàu cảm xúc.

  • TRẦN THỊ MAI NHÂNNgười ta kể rằng, ở Ấn Độ, trong cái nhộn nhịp của cuộc sống, con người thường nghe văng vẳng tiếng gọi: “Hãy chở ta sang bờ bên kia”. Đó là tiếng gọi của con người khi “cảm thấy rằng mình còn chưa đến đích” (Tagore).

  • HOÀNG THỊ BÍCH HỒNGKhái niệm “Lạ hoá” (estrangemet) xuất hiện trong những năm 20 của thế kỷ XX gắn với trường phái hình thức Nga. Theo Shklovski thì nhận thức của con người luôn có xu hướng tự động hoá để giảm bớt năng lượng tư duy, “người ta thường dùng những từ quen thuộc đến sờn mòn”(1).

  • VÕ THỊ THU HƯỜNGTrời đất bao la mênh mông, ẩn chứa thật nhiều những bí mật mà con người chúng ta không ngừng khám phá mỗi ngày và cũng đã đạt được rất nhiều thành tựu mới mẻ và kỳ lạ.

  • TZVETAN TODOROV Lời dẫnNền văn chương đang lâm nguy (La littérature en péril)(1), đó là tựa đề cho cuốn sách mới nhất, vừa được xuất bản ở Pháp của nhà lý luận văn học nổi tiếng: Tzvetan Todorov - đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa cấu trúc, tác giả của nhiều công trình khoa học tầm cỡ.

  • LẠI NGUYÊN ÂN 1. Phạm trù chủ nghĩa cá nhân (individualisme) của tư tưởng phương Tây được Phan Khôi (1887-1959) đề cập từ cuối những năm 1920 đầu những năm 1930, khi mà một trong những đề tài thu hút ngòi bút viết báo của ông chính là vấn đề thời sự của đời sống văn hoá tư tưởng đương thời: trạng thái và số phận của những tư tưởng cổ truyền phương Đông trước một xu thế đang diễn ra trên chính phương Đông, được gọi là xu hướng “Âu hoá”.

  • HỒ THẾ HÀPhân tâm học ra đời đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc nhận thức những vấn đề thầm kín, vi diệu nhất của tâm sinh lý con người. Nó trở thành khoa học phân tích tâm lý chiều sâu của mọi hành vi trong đời sống ý thức và vô thức của mỗi cá thể người.