Nghĩ về tập truyện ngắn "Tháng bảy không mưa"(*)

15:59 04/03/2021

VƯƠNG HỒNG HOAN

Vài năm gần đây truyện ngắn của Triều Nguyên xuất hiện trên Sông Hương. "Tháng bảy không mưa" là tập truyện ngắn đầu tay tập hợp một số những sáng tác chưa được công bố của anh. Đề tài chủ yếu trong tập truyện là viết về nông thôn.

Phát huy thế mạnh của một cây bút gần gũi trăn trở với nông thôn, Triều Nguyên đã đưa vào trong tác phẩm hình ảnh của người nông dân chất phác, những người lao động bình thường, giản dị với những nét đẹp trong phẩm chất đạo đức và cả những hạn chế khiếm khuyết của họ. Xuất hiện vào những năm cuối thập kỷ 80 giữa lúc truyện ngắn nước ta đang có những biến đổi lớn cả nội dung lẫn hình thức nghệ thuật độc đáo và đa dạng, truyện ngắn Triều Nguyên thật khó tạo nên một dấu ấn sâu đậm, một bản sắc riêng ngay từ đầu trong tâm trí người đọc. Tuy vậy, như những bức tranh nho nhỏ, như những nét phác thảo ký họa, tập truyện gợi cho người đọc những suy nghĩ khó quên. Với lối dẫn dắt câu chuyện giản dị, tác giả biết phát hiện những vẻ đẹp vẹn nguyên của người lao động bình thường. Đó là bà mẹ hơn bảy mươi tuổi đã già yếu vẫn cùng cháu con đi đạp nước chống hạn cho lúa trong một đêm trăng huyền ảo và câu chuyện mẹ kể trong một đêm trăng ấy vừa thực vừa mộng vừa gần gũi vừa xa xôi được đúc kết từ bao nỗi đắng cay chua xót và hạnh phúc của một đời người (Trăng hạ tuần). Lòng yêu nghề gắn bó với nghề nghiệp một cách máu thịt khiến cho ông già lái xe suốt hơn năm mươi năm cầm lái đã luôn nghĩ đến hạnh phúc cho mọi người và vì mọi người mà làm nhiều việc tốt hơn (Ông già). Ở truyện ngắn "Tháng bảy không mưa" tác giả xoáy sâu vào lòng yêu đất đai và sự gắn bó khăng khít của người nông dân với quê hương, bản quán. Thiên nhiên khắc nghiệt, cuộc sống bế tắc khiến cho người nông dân chân trần, cần cù chất phác phải bỏ nhà đi tha phương cầu thực. Thế nhưng dù sống ở "đất khách quê người" họ vẫn luôn hướng về nơi chôn rau cắt rốn trước đây với tình cảm sâu lắng da diết. Hình ảnh ông Huyến - trung tá về hưu, sớm chiều khuya khoắt vẫn gắn bó với rừng dương một cách âm thầm, trước sự biến động phức tạp của dòng đời ngay trong làng xóm ông, có tính chất cụ thể và cũng có ý nghĩa tượng trưng (Khoảng trng phía sau). Ở những truyện ngắn vừa kể trên, nhân vật có tên hoặc không có tên đều được tác giả dựng lên với dụng ý để khắc họa một vẻ đẹp của người lao động bình thường trong xã hội chúng ta. Ở các truyện "Vợ chồng chị Diệu", "Hôn lễ", "Tôi là người sung sướng", Triều Nguyên cũng vẫn đề cập đến thân phận những người lao động nghèo đói với những đau khổ, đắng cay và hạnh phúc của họ. Hạnh phúc như trái ngọt nhưng thật khó thay đối với "những người dưới đáy", "phó thường dân" như Loan như Tiệp. Họ phải lên rừng đi tìm trầm, đào vàng và phải đánh đổi cả tính mạng của mình để cuối cùng chỉ là được chết bên nhau (Hôn l). Vợ chồng chị Diệu tìm hạnh phúc như hai kẻ giành nhau một tấm chăn hẹp trong đêm đông giá rét. Họ đều phải trả giá, cái giá quá đắt đối với hạnh phúc mà họ có được (Vợ chng chị Diệu). Ở truyện ngắn "Tôi là người sung sướng", tác giả viết theo dạng như tự thuật làm cho người đọc càng cảm thông với những cây bút trẻ hiện nay. Để có những giờ phút hạnh phúc trong sáng tạo văn chương, nhân vật tôi - cây bút trẻ - phải lăn lộn, trăn trở, vất vả biết bao trước sự thử thách nghiệt ngã của cuộc sống đời thường. Và điều đáng quý là người viết vẫn biết vượt lên để có những tác phẩm có ích cho đời.

Ở tập truyện ngắn "Tháng bảy không mưa", Triều Nguyên không có ý định thể hiện những xung đột gay cấn, những tình tiết giật gân mà chỉ tập trung khắc họa những chân dung người lao động bình thường, giản dị ở một vùng đất mà anh thông thuộc, gắn bó. Ở trong nhiều truyện ngắn của mình, Triều Nguyên tỏ ra am hiểu sâu sắc hành động ngôn ngữ của nhân vật. Điều đáng tiếc là nếu như tác giả kết hợp nhuần nhuyễn việc thể hiện tính cách nhân vật qua việc mô tả tâm lý với việc khắc họa bằng hành động, ngoại hình - điều mà trong vài truyện ngắn trước đây Triều Nguyên đã thành công ít nhiều thì tác phẩm của anh sẽ thuyết phục bạn đọc hơn.

Qua tập truyện ngắn đầu tay của Triều Nguyên - dù không có những truyện thật đặc sắc, nổi bật - người đọc có cơ sở để tin rằng: Với lòng say mê sáng tạo và với một quan niệm đầy tâm huyết gửi gắm "Tôi vốn coi chuyện văn chương là thiêng liêng nhất đời. Dù biết chắc chắn trước mắt cũng như lâu dài, nó không mang lại cơm áo cho mình tôi vẫn căm ghét kẻ chà đạp, phỉ báng nó" (Tôi là người sung sướng) Triều Nguyên sẽ đáp ứng được điều mong đợi của bạn đọc.

V.H.H
(TCSH49/05&6-1992)

------------------------
(*) “Tháng bảy không mưa”, tập truyện ngắn của Triều Nguyên, Hội VHNT Thừa Thiên- Huế. 1991

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN ĐĂNG MẠNHNguyễn Khải ở trong Nam, ít khi tôi được gặp. Tôi rất thích nói chuyện với anh. Đúng ra là tôi thích nghe anh nói.

  • PHẠM XUÂN HÙNG(Về cuốn Đọc văn - Tiểu luận - Phê bình của Phạm Phú Phong, NXB Thuận Hóa, 2008)

  • HÀ VĂN LƯỠNGChingiz Aitmatốp thuộc trong số các nhà văn lớn được độc giả nhiều nước trên thế giới biết đến. Tác phẩm của ông thể hiện những vấn đề đạo đức nhân sinh, nhân loại. Ngoài việc sử dụng các đặc điểm thời gian, không gian nghệ thuật, cấu trúc, giọng điệu tác phẩm... nhà văn còn đưa huyền thoại, truyền thuyết vào tác phẩm như là một thi pháp biểu hiện mang tính đặc trưng của ông.

  • TÔ NHUẬN VỸ(Nhân đọc một số bài tranh luận về cuốn THƠ ĐẾN TỪ ĐÂU)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊBộ trường thiên tiểu thuyết “Sông Côn mùa lũ”(*) của nhà văn Nguyễn Mộng Giác, được bạn đọc chú ý trước hết vì bề dày 4 tập 2000 trang với nhân vật trung tâm là người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ; sau nữa, đây là tác phẩm văn học dày dặn nhất của một Việt kiều được xuất bản trong nước.

  • ĐỖ NGỌC YÊN…Thơ Hoàng Trần Cương là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa những chất liệu, hình ảnh và ngôn ngữ của đời sống, với sự đào sâu những suy tư, khát vọng sống của con người và một vùng quê mà anh đã nặng nghĩa sinh thành...

  • THỦY THANHCơn đại hồng thủy đầu tháng 11 năm 1999 được coi như "bản tổng kết thủy tặc" đầy bi tráng của thiên nhiên trong thế kỷ 20 đối với mảnh đất Thừa Thiên Huế. Nó đã gây ra nỗi kinh hoàng, đau thương, mất mát to lớn và cũng để lại không ít những hệ lụy nặng nề cho con người ở nơi đây. Và cũng chính nó - cơn lũ chưa từng có này - đã đi vào lịch sử.

  • BẾ KIẾN QUỐCNăm ấy, vào quãng mùa hè 1982, khi đang trực Ban văn xuôi của báo Văn Nghệ, tôi nhận được một bản thảo truyện ngắn kèm theo lời nhắn: “ Cái truyện này rất quan trọng đối với tôi. Rất mong được tòa soạn đọc kỹ và cho ý kiến. Mấy hôm nữa tôi sẽ quay lại”.

  • THÁI DOÃN HIỂUNgô Văn Phú là thi sĩ của đồng quê. Anh có thể viết nhiều đề tài như xây dựng, chiến tranh, lịch sử, tình yêu..., nhưng như lá rụng về cội, ngược về nguồn, Ngô Văn Phú trở lại nơi làng quê yêu dấu với một tình yêu bẩm sinh, yêu đến tận cùng gốc rễ như Nêruđa đã viết.

  • MAI VĂN HOANTrong số bạn bè cùng lứa thì Ngô Minh bước vào làng thơ muộn màng hơn cả. Nếu Lâm Thị Mỹ Dạ được chú ý ngay khi còn ngồi trên nghế nhà trường, Hải Kỳ có thơ in trên báo Văn nghệ những năm 69,70 thì Ngô Minh vẫn chưa hề có ai hay biết.

  • HOÀNG VŨ THUẬTCó những bài thơ đọc lên và bắt gặp ngay cái đẹp trong từng câu chữ. Lại có những bài thơ đọc đi đọc lại thấy hay mà không dễ gì tìm thấy ngay được. Nó như vẻ đẹp của người con gái có duyên thằm. Cái đẹp thầm kín, ẩn náu.

  • HOÀNG VŨ THUẬTTrong một bài thơ viết trên giường bệnh, trước khi mất vài hôm Thanh Hải tâm sự:     Ta làm con chim hót     Ta làm một cành hoa                                   Ta nhập trong hòa ca                                   Một nốt trầm xao xuyến                                          (Mùa xuân nho nhỏ)

  • Tiểu thuyết "Vạn Xuân" (Dix mille Printemps) của nữ văn sĩ Pháp Yveline Féray viết về cuộc đời Nguyễn Trãi và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn dày trên 1200 trang, do Nguyễn Khắc Dương và một số cộng tác viên dịch, do Nhà xuất bản Văn học in năm 1997 đã được độc giả Việt Nam đón nhận nồng nhiệt.

  • PHAN VĂN CÁCTuy Lí Vương Nguyễn Miên Trinh (1820- 1897) là con thứ 11 vua Minh Mệnh triều Nguyễn, tự là Khôn Chương, lại có tự là Quý Trọng, hiệu là Tĩnh Phố (tên ngôi vườn ông ở) lại có hiệu là Vi Dã. Tuy Lí Vương là tước phong cuối cùng của ông (trước đó từng có tước Tuy Quốc công năm 19 tuổi).

  • HOÀNG CẦM(Lời Bạt cho tập thơ ĐÓA TẦM XUÂN của Trịnh Thanh Sơn - Nhà Xuất bản Văn học 1999)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTác phẩm đầu tay của tôi - tập ký sự “Vì sự sống con đường” (NXB Thanh Niên, Hà Nội, 1968) viết về những đồng đội của tôi trong cuộc chiến đấu anh hùng bảo vệ tuyến đường 12A lên đèo Mụ Dạ, một đoạn đường trọng yếu trong hệ thống đường Hồ Chí Minh giai đoạn 1965-1966, được xuất bản năm 1968, nhưng bài viết đầu tiên của tôi được in trên báo chí khi tôi vừa tròn 20 tuổi và đang học tại Hà Nội.

  • Thanh Hải tên thật là Phạm Bá Ngoãn. Anh sinh ngày 4 tháng 11 năm 1930, quê ở xã Phong Bình, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Nhà thơ mất ngày 15 tháng 12 năm 1980, tại thành phố Huế.

  • LÊ VĂN DƯƠNG1. Quý II năm 2005, Nhà xuất bản Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh phát hành, nói đúng ra là tái bản lần thứ nhất cuốn Tản mạn nhớ và quên của Nguyên Ngọc. Cuốn sách dày 560 trang, tập hợp 15 bài viết của tác giả ở những thời điểm khác nhau nhưng đa phần là vào những năm 90 của thế kỷ XX và một vài năm mở đầu thế kỷ XXI.

  • PHAN CHÍNSau khi làm tròn vai một nhà chính trị, không giống như nhiều người khác, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm rời Thủ đô Hà Nội về Huế sinh sống.

  • NGUYỄN THỊ KIM THANH(Nhân đọc Tập thơ Ngày đầu tiên của Trần Hữu Lục - NXB Hội Nhà Văn, 01-2010)